Home / Chùm thơ chọn lọc / Thơ Nguyễn Công Trứ – Phóng khoáng và tràn đầy chất “Ngông” Phần 1

Thơ Nguyễn Công Trứ – Phóng khoáng và tràn đầy chất “Ngông” Phần 1

Thơ Nguyễn Công Trứ – Phóng khoáng và tràn đầy chất “Ngông” Phần 1

Giới thiệu đến quý độc giả yêu thơ Nguyễn Công Trữ, phần 1 của tuyển tập thơ Nguyễn Công Trứ hay và đầy đủ nhất. Nguyễn Công Trứ là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam, nổi tiếng là vị quan thanh liêm, tài trí hơn người nhưng có lối sống tự do và vô cùng ngang tàng, ngạo nghễ.

Nhà thờ thất hoả

Phụng thờ hương khói bấy nhiêu đông

Một phút làm nên rạng tổ tông

Trống đánh vang lừng miền ấp lý

Tàn bay phấp phới cõi tây đông

Làng trên xã dưới đem đầu lại

Kẻ ngược người xuôi ngoảnh mặt trông

Vận hội khi may đen hoá đỏ

Làm trai như thế sướng hay không?

Nhàn nhân với quý nhân

Cơn chếnh choáng xoay vần trời đất lại,

Chốc ngâm nga xáo lộn cổ kim đi.

Cái công danh là cái chi chi,

Quý nhân tưởng bất như nhàn nhân quý.

Thú yên hà gửi nơi thành thị,

Nhớ Đông Ba, Gia Hội có hai cầu.

Khi gió mát lúc trăng thâu,

Dập dìu những văn nhân tài tử.

Trong ngọc đá vàng thau ai biết thử,

Có xanh xanh trên ấy đã cầm quyền.

Đua hồng sánh lục bấy nhiêu niên,

Nào đã thấy hoa khôi là mấy mặt.

Thôi cũng muốn Nam vô Di đà Phật,

Trót dở đem thân thế hẹn tang bồng.

Nghìn dặm đường một gánh non sông,

Còn mơ tưởng năm xưa cầm với hạc.

Thời nhân bất thức dư tâm lạc,

Mượn phong tình mà giả nợ phong lưu.

Thanh nhàn ngâm một vài câu,

Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi.

Để cho đó gẫm mà coi.

Nhân tình thế thái

Gớm chết nhân tình thế thái,

Lạt nồng, coi chiếc túi đầy vơi!

Trông tốt màu, lựa ý theo hơi,

Giọng thù phụng ngọt ngào đủ mực.

Khi trở mặt, sa mày nặng mặt,

Thói đảo điên hủng hỉnh không dời.

Nghe ra thời cũng buồn cười,

Nghĩ lại từ đây phải chạy.

Buộc chỉ cổ tay chừa trước ấy,

Chống rèm con mắt ngắm sau này.

Việc trăm năm ngày tháng hãy dài,

Đường kim cỗ hẳn nhiều lúc gặp.

Thôi cũng chớ can chi mà gấp,

Bỗng bồn chồn hấp tấp khéo xinh,

Gớm cho thế thái nhân tình!

Nợ công danh

Giang sơn bất thiểu anh hùng khách

Gánh kiền khôn đeo nặng kẻ rừng nho

Thiên phú ngô, địa tái ngô

Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý

Dã thị giang sơn chung tú khí

Quả nhiên đài các xuất danh công

Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng

Cờ báo tiệp giữa trời Nam bay bướm nhẹ

Tài bộ thế mà công danh lại thế

Nợ trần hoàn quyết giả lúc này xong

Dồi dào thiên tứ vạn chung

Khanh hầu xa mã tướng công lâu dài

Trần ai ai dễ biết ai?

Nợ nam nhi

Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái

Cái công danh là cái nợ nần

Nặng nề thay hai chữ “quân thân”

Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ

Cũng rắp điền viên vui tuế nguyệt

Trót đem thân thế hẹn tang bồng

Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung

Hết bốn chữ “trinh trung báo quốc”

Nghiêng mình những vì dân vì nước

Túi kinh luân từ trước để về sau

Nghìn thu một tiếng công hầu

Nợ phong lưu

Cõi trần thế nhân sinh là khách cả(1)

Nợ phong lưu kẻ giả có người vay

Trong trần ai(2), ai biết ai hay

Làm ra đấng phi thường cho rõ mặt

Quân tử dụng tâm vô đố tật

Trượng phu xử thế hữu kinh quyền(3)

Bất vưu nhân, bất oán thiên (4)

Ba vạn sáu nghìn ngày thích chí

Năm ba chén trà nhân rượu trí(5)

Một vài câu thơ thánh phú thần

Nhởn nhơ trong cõi hồng trần

Gặp ngày chung đỉnh đai cân (6)cũng vừa

Thảnh thơi bầu rượu túi thơ.

Nợ tang bồng

Vũ trụ giai ngô phận sự

Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn?

Chí tang bồng hẹn với giang san

Đường trung, hiếu, chữ “quân thân” là gánh vác

Thi rằng:

Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông

Nợ sách đèn đem nghiên bút giả xong

Cầu xe ngựalúc đi về mới tỏ

Duyên ngư thuỷ, hội long vân còn đó

Miếng đỉnh chung cho biết mùi đời

Nhắn trăng nhủ gió đưa người

Bẻ ngành đan quế cho rồi liền tay

Trần ai ai có kém ai!

Phận anh nghèo

Nói phô nghe cũng giỏi con giai

Vì nỗi không tiền hóa dở ngài

Khôn khéo dễ hầu bưng khắp miệng

Khen chê thôi cũng gác ngoài tai

Tính quen mặt đó, đà ghe kẻ

Song biết lòng cho, dễ mấy ai?

Ðã thế thời thôi thôi mặc thế

Ði lâu rồi mới biết đường dài

Phận sự làm trai

Vũ trụ chức phận nội

Đấng trượng phu một túi kinh luân.

Thượng vị đức, hạ vị dân,

Sắp hai chữ “quân, thân” mà gánh vác,

Có trung hiếu nên đứng trong trời đất

Không công danh thà nát với cỏ cây.

Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây,

Phải hăm hở ra tài kinh tế

Người thế trả nợ đời là thế

Của đồng lần thiên hạ tiêu chung,

Hơn nhau hai chữ anh hùng.

Phường danh lợi

Cho hay trống thủng có làng bưng

Đã dễ rồi còn muốn dễ dưng

Mặc sức đâm thùng và tháo đáy

Tha hồ tráo đấu lại lường thưng

Khéo đem muối nọ toan gieo biển

Nghĩ rút dây kia sợ động rừng

Xấu máu xin đừng ăn của độc

Rượu làng thì uống rượu mua đừng

Tài tình

Ai chê rằng đểu cũng oan,

Cuộc cờ bốn nước, cung đàn một dây.

Thế nhân mạc oán tài tình lụy,

Không tài tình quang cảnh có ra chi.

Thú tiêu sầu rượu rót thơ đề,

Có yến yến hường hường mới thú!

Khi đắc ý mắt đi mày lại,

Đủ thiên thiên thập thập thêm nồng.

Nợ phong lưu ai nỡ chối không,

Duyên tri ngộ nên đeo đẳng mãi.

Thiên vạn khuyến quân mạc quái,

Nam nhi đáo thử thị hào.

Gẫm tài tình, nào lụy ai nào!

Ai rằng lụy, đây xin chịu cả.

Trong trần thế thiệt là cảnh giả,

Dứt tài tình chẳng uổng lắm ru.

Xin xin đừng oán mà ngu!

Tang bồng là nợ

Tang bồng là nợ,

Đấng làm trai chi sợ áng công danh

Phú quý tương dĩ hậu ngô sinh, bần tiện tương dĩ ngọc ngô thành.

Cái vinh, cái nhục là đắp đổi

Thuỳ năng thế thượng vong danh lợi

Tiện thị nhân gian nhất hoá công

Thôi thời thôi quân tử cố cùng

Cùng khi ấy hẳn là thông khi khác

Số tảo vãn tuỳ cơ phó thác

Chớ như ai chịu chắt cũng tay không

Chơi cho phỉ chí tang bồng.

Tết nhà nghèo

Tết nhất anh ni ai nói nghèo

Nghèo mà lịch sự, đố ai theo!

Bánh chưng chất chật chừng ba chiếc

Rượu thuốc ngâm đầy độ nửa siêu

Trừ tịch kêu vang ba tiếng pháo

Nguyên triêu cao ngất một gang nêu

Ai xuân, anh cũng chơi xuân với

Chung đỉnh ơn vua ngày tháng nhiều

Than cảnh nghèo

Vốn hễ anh hùng mới có nghèo

Sao mà ta lại trải trăm chiều?

Trái mùa, nghiệp cũ không nên bỏ

Ế chợ, nghề nhà cũng phải theo

Những giữ miệng đà không muốn nói

Làm sao bụng lại cứ thường trêu?

Suy ra mới biết rằng hay dở

Kể trước như ta dáng cũng nhiều

Thất thập tự thọ

七十自壽

日對兒曹自解頤,

今吾不自故吾時。

隨幾傀儡躬人俏,

直既年華界古禧。

老實不堪裝面目,

櫻花安用冉修裨。

自慚先烈毫無狀,

怪察紅山有是非。

Thất thập tự thọ

Nhật đối nhi tào tự giải di,

Kim ngô bất tự cố ngô thì.

Tuỳ cơ khối lỗi cung nhân tiếu,

Trực ký niên hoa giới cổ hy.

Lão thực bất kham trang diện mục,

Anh hoa an dụng nhiễm tu tì.

Tự tàm tiên liệt hào vô trạng,

Quái sát Hồng Sơn hữu thị phi.

Dịch nghĩa

Hằng ngày ta sẽ cùng chơi đùa với trẻ con

Ta hôm nay không còn giống ta ngày xưa nữa

Ta theo thời mà làm con rối mua cười cho thiên hạ

Thấm thoát nay đã đến tuổi cổ lai hy

Cái chân chất không cần trau tria mày mặt nữa

Vẻ tốt tươi đem nhuộm cho râu tóc để làm gì

Ta tự lấy làm thẹn chẳng có chút công trạng gì

Thôi hãy phó mặc cho núi Hồng hạ lời khen chê.

Thầy và tớ

Bầu kinh sử với níp kim cương,

Thầy tớ đều qua một chuyến giang.

Dặm hội gia tề thầy đủng đỉnh,

Toà vàng núi ngọc tớ nghênh ngang,

Thầy sao chẳng nhớ lời Hàn Dũ,

Tớ hãy còn căm chú Thuỷ Hoàng.

Trong cõi trần hoàn thầy với tớ,

Thầy về tôi Phật tớ tôi vương.

Thế tình bạc bẽo

Đ.. mẹ nhân tình đã biết rồi!

Lạt như nước ốc bạc như vôi.

Tiền tài hai chữ son khuyên ngược,

Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi.

Chân có chẹt rồi thời há miệng,

Vòng chưa thoát khỏi đã cong đuôi.

Dám xin các bác phen này nữa,

Nấu xáo xin đừng nấu xáo vôi.

Thế tình đen bạc

Vận chuyển cơ trời nghĩ cũng màu,

Chắc rằng ai đói, chắc ai giàu.

Kể đâu miệng thế khi yêu ghét,

Ðược mấy lòng người có trước sau.

Cuối tết mới hay rằng sớm muộn,

Giữa vời sao đã biết nông sâu?

Hãy xem trời đất thời liền rõ,

Dầu nắng dầu mưa có mãi đâu!

Thế tình đối với người nghèo

No thời ra bụt đói ra ma,

Chẳng lạ nhân tình đất kẻ ta.

Khôn khéo chẳng qua thằng có của,

Yêu vì đâu đến đứa không nhà.

Ở đời mới biết cùng thời dễ,

Muôn sự cho hay nhịn cũng qua.

Cơ tạo có đi thời có lại,

Vạch vôi lấy đó mãi ru mà.

Thích chí ngao du

Ngâm cùng giăng gió vài câu kiểng,

Tính với giang sơn mấy chuyện đời.

Thú gì hơn nữa thú ăn chơi,

Chi giàu khó, sang hèn là phận cả.

Ðủ lếu láo với người thiên hạ,

Tính đã quen đài các mấy lâu.

Ðàn một cung, cờ một cuộc, thơ một túi, rượu một bầu,

Khi đắc chí ngao du, ờ cũng phải!

Ðạo thông thiên địa hữu hình ngoại,

Tứ nhập phong vân biến thái trung.

Hỏi giang sơn mấy kẻ anh hùng,

Tri ngã giả, bất tri ngã giả.

Người có biết ta, hay thì chớ,

Chẳng biết ta, ta vẫn là ta.

Linh khâm bảo hợp thái hoà,

Sạch không trần luỵ ấy là thần tiên.

Ngang tàng lạc ngã tính thiên.

Thoát vòng danh lợi

Chen chúc lợi danh đà chán ngắt,

Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao.

Đám phồn hoa trót bước chân vào,

Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết.

Quá giả vãng nhi bất thuyết,

Cái hình hài làm thiệt cái thân chi.

Cuộc đời thử gẫm mà suy,

Bạn tùng cúc xưa kia là cố cựu.

Hẹn với lợi danh ba chén rượu,

Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ,

Chuyện cổ kim so sánh tựa bàn cờ,

Riêng vui thú giang sơn phong nguyệt.

Mặc xa mã thị thành không dám biết,

Thú yên hà trời đất để riêng ta.

Nào ai, ai biết chăng là?

Xem thêm:  Thơ Về Tuổi Thơ – Chùm Thơ Hay Viết Về Tuổi Thơ Rất Đẹp

Thói đời

Thế thái nhân tình gớm chết thay

Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy

Hễ không điều lợi, khôn thành dại

Ðã có đồng tiền, dở cũng hay

Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi

Hẳn hoi không hết một bàn tay

Suy ra cho kỹ ai hơn nữa

Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.

Thơ đề mo cau

Xuống ngựa lên xe nọ tưởng nhàn,

Lợm mùi giáng chức với thăng quan.

Điền viên dạo chiếc xe bò cái,

Sẵn tấm mo bưng miệng thế gian.

Bài này gắn với giai thoại Nguyễn Công Trứ khi được vua Tự Đức cho về trí sĩ, thường ngồi trên một chiếc xe bò cái, có một chiếc mo cau treo ngay ở đít bò với bài thơ trên để giễu thói đời.

Thú nguyệt hoa

Nhân sinh thất thập cổ lai thiếu,

Trẻ thơ ngây, già tuổi tác, tính mà chi.

Giữa trung gian quang cảnh bấy nhiêu thì.

Khi ấm lạnh lại khi phiền não,

Năng đắc khẩu thời khai khẩu tiếu,

Cư chu hoàn phụ thủ quang âm.

Sao bằng giũ sạch trần tâm,

Khi ngoạn nguyệt, khi thăm hoa nở.

Cho giải kết dẫu ra sao nữa,

Nợ phong lưu như rứa lãi rồi.

Nghìn vàng chuốc lấy trận cười.

Thú thanh nhàn

Nhân trung thụy, giác tam can nhật,

Vắt chân ngồi với bạn khách cầm ca.

Cuộc tỉnh say bàn rượu chén trà,

Cơn đắc ý thùng thùng đôi tiếng trống.

Bạch tuyết thanh cao, oanh yến lộng,

Quân thiều hưởng triệt, cổ chung minh.

Này tiếng đàn tinh tính tinh tình tinh.

Thú vui thú ném ngang vành tráng sĩ.

Cõi nhân sinh thích chí,

Lúc thái bình hà nhật bất xuân phong.

Của trần hoàn không có có không,

Kho vô tận không không rồi lại có.

Chữ tài ấy ăn chơi, ở đủ!

Sôi kinh rồi đánh miếng đỉnh chung.

Một mai bẻ quế thiềm cung,

Trăng đưa đàn nguyệt, sấm rầm trống lôi.

Trăm năm đài các lạ đời!

Thú tổ tôm

Nhân sinh quí thích chí,

Cuộc ăn chơi chi hơn thú tụ tam,

Tài kinh luân xoay dọc xoay ngang,

Cơ điều đạc quân ăn đang đánh.

Gọi một tiếng, người đều khởi kính,

Dạy ba quân, ai dám chẳng nhường?

Cất nếp lên, bốn mặt khôn đương;

Hạ bài xuống, tam khôi chiếm cả!

Nay gặp hội quốc gia nhàn hạ,

Nghĩ ăn chơi thú nọ cũng hay,

Gồm hai văn võ trong tay!

Thua bạc

Ngày xuân thong thả, tính thờ ơ

Thấy chúng chăn trâu đánh cũng ưa

Tưởng làm ba chữ mà chơi vậy

Bổng chốc lên quan đã sướng chưa!

Trách đời

Chớ thấy người thương, bỗng hở hăm

Phải xem cho kĩ kẻo mà lầm

Chẳng ưa, thoắt chốc ra hờn mát

Không luỵ, càng nhiều tiếng nói xâm

Tưởng nỗi nhân tình mà ghét độc

Nghĩ trong thế cục những cười thầm

Thôi thôi chẳng nói chi cho lắm

Vốn hễ ân thâm, oán cũng thâm

Trách người đời

Những điều tráo trở đã xem từng,

Song rút dây kia sợ động rừng.

Người thế những tuồng trông trước mắt,

Ở đời mấy kẻ ngắm sau lưng.

Tính toan luống đổ mồ hôi muối,

Thương xót đà no nước mắt gừng.

Đã thế thời thôi, thôi mặc thế,

Công đâu cho nhọc giận người dưng.

Trách tình nhân

Ðứng núi này trông núi nọ cao

Nhân tình ơ hỡ biết làm sao!

Nghĩ mình chưa phải tình Kim Trọng

Mà đó đà mang nợ Thúy Kiều

Non nước nước non ngao ngán nỗi

Cỏ hoa hoa cỏ ngẩn ngơ chiều

Vườn hoa kia để ai rong rả

Ong bướm xông pha dáng cũng nhiều

Trong trần mấy mặt làng chơi

Lần lữa tiết xuân dương có mấy,

Bóng quang âm chơi lấy kẻo già.

Trăm năm trong cõi người ta,

Xóc sổ tính ngày chơi đà được mấy?

Thôi thôi chơi cũng là chơi vậy!

Biết mùi chơi chưa dễ mấy người.

Nợ nhà, tình vay một trả mười,

Duyên hội ngộ, cũng lừa ba lọc bảy.

Mang tiếng với non sông thời cũng phải,

Đem ngàn vàng mua lấy tiếng cười,

Phong lưu cho bõ kiếp người!

Trống đại cổ

Bé mọn làm chi những thứ bồng!

Lớn lao thế ấy ghẹo ai rung

Đôi bên bằng phẳng trời hai mặt

Chính giữa tròn xoay nguyệt một vòng

Hiên bệ gió đưa dùi cắc cắc

Giang sơn sấm dậy tiếng tùng tùng

Huống chưng đất nước đồ sang trọng

Đai nẹp sơn son lại vẽ rồng

Trường An hoài cổ

Mưỡu:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,

Dẫu không lịch sự cũng người Trường An.

Nói:

Hồi thủ khả liên ca vũ địa,

Đất Trường An là cổ đế kinh.

Nước non một giải hữu tình,

Trời Nam Việt gây đồ đế kỷ,

Người thôn ổ, dấu phong lưu thành thị,

Đất kinh kỳ riêng một áng lâm tuyền.

Ven sườn non tiếng mục véo von,

In mặt nước buồm ngư thong thả.

Hoa thảo ký kinh xuân đại tạ,

Giang sơn trầm tiếu cổ hưng vong.

Tranh thiên nhiên riêng một bức tang thương,

Khách du lãm coi nhường thăm hỏi.

Đã mấy độ sao dời vật đổi,

Nào vương cung, đế miếu đâu nào.

Mỉa mai vượn hót oanh chào.

Xem thêm:  Nhà thơ Tản Đà và phần Hát (Tập Khối tình con II 1918)

Trương Lương

Lưu hầu Trương Lương là người có có công giúp Hán thù Hàn, đánh Tần dẹp Sở, lao đao đã lắm, mưu trí đã dầy, thật đáng bậc đế sư, nên vào hàng tam kiệt, vua ban bổng lộc rất hậu, thiên chung vạn đỉnh, mà chẳng thèm chút nào, lại muốn tìm phương thoát vòng tục luỵ, xa lối công danh, chỉ lấy sự bảo kỳ thân làm trọng. Vậy nên khi đã làm xong chức trách, tự nơi lòng, tuy chẳng tin ở sự tu tiên là đường hư đản, song cũng mượn tiếng theo Xích Tùng Tử du tiên để tiêu diêu chốn non xanh nước biếc, cảnh thanh nhàn tùng cúc trúc mai, thú tịch mịnh riêng người biết thú. Nhớ lời thầy Trình Tử khen rằng: “Trí tai Lưu Hầu, thiện tàng sở dụng!” Kinh thi rằng: “Ký minh thả triết, dĩ bảo kỳ thân”, xưa nay dễ thường một mình Trương Lương làm đặng vậy.

Thương thay cho nho nhã!

Kính thay người nho nhã!

Gặp thuở thuận Tần,

Vốn lòng lương tá.

Chung đỉnh năm triều ân ái, nặng sa trung lỗi dịp phó xa,

Lược thao ba cuốn trí mưu, xa Bái hạ tìm người trưởng giả.

Đẩy đưa tấc lưỡi, đứng bậc đế sư,

Xốc vác năm năm, dựng nền vương bá.

Nghiệp Hán thù Hàn vẹn vẽ, nặng lời Huỳnh thạch ước xưa,

Đường danh nẻo lợi thờ ơ, nhẹ bước Xích tòng thong thả.

Thảnh thơi thuyền Phạm Ngũ Hồ,

Xuôi ngược buồm ngư một lá.

Lộc nước muôn nhà búng vẩy, thờ ơ áo vải đủ nguyền xưa,

Bụi trần một phút tan không, thủng thỉnh bữa thường theo khách lạ.

Dối cũng nên mà thiệt cũng nên,

Tiên chẳng bạ nhưng trần vẫn bạ.

Phú quý mặc ai lung lạc, cánh hồng giũ sạch tiếng tàng cung,

Thân danh chẳng bợn kê mê, gót phụng lọt xa vòng lão mã.

Rất khôn thay biết lẽ tới lui,

Chẳng bận mấy những điều dối trá.

Kìa kẻ cổ quăng, nọ người đại tướng, va danh nhận kiệt có ba người,

Trước xe Vân mộng, sẵn áng thương tâm, ghi chữ hảo thân riêng một giá.

Y thần tiên hư đản đã đành,

Lựu Tiêu Tín công danh bao nả?

Đường tiến thoái như gương nhât nguyệt, bàn chi kẻ phải người chăng,

Nghĩa thuỷ chung vẹn ước san hà, mới biết mưu thâm chí cả.

Vả nay:

Ôn qua cựu sử, thấy chữ “Trí tai Lưu Hầu”,

Khéo dấu thửa dùng, xưa nay mấy gã?

Tuổi già cưới vợ hầu

Trẻ tạo hoá ngẩn ngơ lắm việc

Già Nguyệt ông cắc cớ trêu nhau

Kìa những người mái tuyết đã phau phau

Run rẩy kẻ đào tơ còn mảnh mảnh

Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh

Nhất toạ lê hoa áp hải đường

Từ đây tạc đá ghi vàng

Bởi đâu, trước lựa tơ chắp chỉ

Tân nhân dục vấn lang niên kỷ?

Ngũ thập niên tiền nhị thập tam!

Tình đã chung, lứa cũng phải vam

Suốt kim cổ lấy làm vận sự

Trong trần thế duyên duyên nợ nợ

Duyên cũng đành mà nợ cũng đành

Xưa nay mấy kẻ đa tình

Lão Trần là một với mình là hai

Càng già càng dẻo càng dai!

Tự thuật 1

Hai mươi năm lẻ những mơ màng

Cuộc thế xem qua đã chán chường

Lúc đạt chẳng qua nhờ vận mệnh

Khi cùng chớ cậy có văn chương

Theo thời cũng rắp tìm nghề khác

Bẩm tính đà quen giữ nết ương

Thời thế, rủi may, thời cũng mặc:

Ai dư nước mắt khóc giàu sang.

Tự thuật 2

Rằng đây há phải khách tầm thường,

Theo thế cho nên phải giữ giàng.

Lúc đạt chẳng qua nhờ vận mệnh,

Khi cùng chớ cậy có văn chương.

Theo thời cũng rắp tìm nghề khác,

Bản tính đà quen giữ nết ương.

Thì thế rủi may thời cũng mặc,

Ai dư nước mắt khóc giàu sang.

Tự thuật bài 1 (Quân tử cố cùng)

Chửa chán ru mà quấy mãi đây,

Nợ nần dan díu mấy năm nay.

Mang danh tài sắc cho nên nợ,

Quen thói phong lưu hoá phải vay.

Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt,

Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay.

Còn trời, còn đất, còn non nước

Có lẽ ta đâu mãi thế này?

Tự thuật bài 2 (Hội gió mây)

Có lẽ ta đâu mãi thế này,

Non sông lẩn thẩn mấy thu chầy.

Ðã từng tắm gội ơn mưa móc,

Cũng đã xênh xang hội gió mây.

Hãy quyết phen này xem thử đã,

Song còn tuổi trẻ chịu chi ngay.

Xưa nay xuất xử thường hai lối,

Mãi thế rồi ta sẽ tính đây.

Tự thuật bài 3 (Thú điền viên)

Mãi thế rồi ta sẽ tính đây,

Ðiền viên thú nọ vẫn xưa nay.

Giang hồ bạn lữ câu tan hợp,

Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say.

Toà đá Khương Công đôi khóm trúc,

Áo xuân Nghiêm Tử một vai cày.

Thái bình vũ trụ càng thong thả,

Chẳng lợi danh chi lại hoá hay.

Tự thuật bài 4 (Thú ẩn dật)

Chẳng lợi danh chi lại hoá hay,

Chẳng ai phiền luỵ chẳng ai rầy.

Ngoài vòng cương toả chân cao thấp,

Trong thú yên hà mặt tỉnh say.

Liếc mắt coi chơi người lớn bé,

Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay.

Của trờì trăng gió kho vô tận,

Cầm hạc tiêu dao đất nước này.

Xem tiếp thơ Nguyễn Công Trứ: Thơ Nguyễn Công Trứ – Phóng khoáng và tràn đầy chất “Ngông” Phần 2

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …