Home / Chùm thơ chọn lọc / Victor Hugo – Cây bút văn thơ vĩ đại của thế giới P1

Victor Hugo – Cây bút văn thơ vĩ đại của thế giới P1

Victor Hugo – Cây bút văn thơ vĩ đại của thế giới P1

Victor Hugo là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng của nước Pháp và thế giới. Những tác phẩm thơ, văn của ông mang giá trị và ý nghĩa vô cùng to lớn. Những triết lý thơ văn của ông đã có công phản ánh trung thực những bước chuyển mình vĩ đại của lịch sử của đất nước.

Trong hơn 60 năm cầm bút sáng tác, ông đã viết nên 45 tác phẩm, trong đó có những cuốn được cả thế giới ngưỡng mộ…

Tập thơ: Những khúc hát đường phố và núi rừng (1866)

Chiều, mùa gieo giống Saison des semailles, le soir

Saison des semailles, le soir

C’est le moment crépusculaire.

J’admire, assis sous un portail,

Ce reste de jour dont s’éclaire

La dernière heure du travail.

Dans les terres, de nuit baignées,

Je contemple, ému, les haillons

D’un vieillard qui jette à poignées

La moisson future aux sillons.

Sa haute silhouette noire

Domine les profonds labours.

On sent à quel point il doit croire

A la fuite utile des jours.

Il marche dans la plaine immense,

Va, vient, lance la graine au loin,

Rouvre sa main, et recommence,

Et je médite, obscur témoin,

Pendant que, déployant ses voiles,

L’ombre, où se mêle une rumeur,

Semble élargir jusqu’aux étoiles

Le geste auguste du semeur.

Hoàng hôn đang xuống đó

Tựa cửa, ta ngắm trông

Ngày tàn còn soi tỏ

Giờ cuối buổi làm đồng

Bóng đêm đầm mặt ruộng

Tơi tả áo quần giây

Cụ già vung nắm giống

Mùa sau xuống luống cày

Dáng người cao đen sẫm

Vời vợi trên đồng sâu

Hẳn lòng người tin lắm

Tháng ngày kia đến đâu

Người bước, đồng mênh mông

Tới lui, tung hạt giống

Nắm mở bàn tay ông

Ta lặng nhìn, mơ mộng

Trong màn đêm lan rộng

Nghe lẫn tiếng rì rào

Cánh tay người gieo giống

Như vươn tới trời sao

Gửi Rôxita À Rosita

À Rosita

Tu ne veux pas aimer, méchante?

Le printemps en est triste, vois ;

Entends-tu ce que l’oiseau chante

Dans la sombre douceur des bois?

Sans l’amour rien ne reste d’Ève ;

L’amour, c’est la seule beauté ;

Le ciel, bleu quand l’astre s’y lève,

Est tout noir, le soleil ôté.

Tu deviendras laide toi-même

Si tu n’as pas plus de raison.

L’oiseau chante qu’il faut qu’on aime,

Et ne sait pas d’autre chanson.

Em không muốn yêu ư, em độc ác?

Mùa xuân đang buồn vì chuyện ấy, em xem!

Em có nghe điều con chim đang hót

Trong sự lắng im buồn bã các khu rừng?

Không tình yêu, không có gì của Evơ còn lại nữa

Tình yêu là sắc đẹp duy nhất trên đời

Không trung xanh khi vầng dương mọc dậy

Và thẫm đen khi cất mất mặt trời

Em sẽ tự mình làm xấu đi

Nếu không biết chọn đường cư xử

Con chim hót nhắc mọi người hãy yêu

Và không biết hót điệu gì khác nữa…

Lũ trẻ tóc vàng hoe Les enfants lisent, troupe blonde

Les enfants lisent, troupe blonde

Les enfants lisent, troupe blonde;

Ils épellent, je les entends;

Et le maître d’école gronde

Dans la lumière du printemps.

J’aperçois l’école entrouverte;

Et je rôde au bord des marais;

Toute la grande saison verte

Frissonne au loin dans les forêts.

Tout rit, tout chante; c’est la fête

De l’infini que nous voyons;

La beauté des fleurs semble faite

Avec la candeur des rayons.

J’épelle aussi moi; je me penche

Sur l’immense livre joyeux;

Ô champs, quel vers que la pervenche!

Quelle strophe que l’aigle, ô cieux!

Mais, mystère! rien n’est sans tache.

Rien! – Qui peut dire par quels noeuds

La végétation rattache

Le lys chaste au chardon hargneux?

Tandis que là-bas siffle un merle,

La sarcelle, des roseaux plats,

Sort, ayant au bec une perle;

Cette perle agonise, hélas!

C’est le poisson qui, tout à l’heure,

Poursuivait l’aragne, courant

Sur sa bleue et vague demeure,

Sinistre monde transparent.

Un coup de fusil dans la haie,

Abois d’un chien; c’est le chasseur.

Et, pensif, je sens une plaie

Parmi toute cette douceur.

Et, sous l’herbe pressant la fange,

Triste passant de ce beau lieu,

Je songe au mal, énigme étrange,

Faute d’orthographe de Dieu.

Lũ trẻ tóc vàng hoe

Tập đánh vần ấp úng

Trong nắng xuân tôi nghe

Giọng thầy đang quở mắng

Cánh cổng trường hé mở

Tôi dạo bước quanh đầm

Cây đang mùa xanh lá

Rừng xa đang thì thầm

Cõi Vô cùng mở hội

Đầy tiếng hát, tiếng cười

Hoa đẹp như được kết

Bằng trắng trong nắng trời

Trang đời vui bát ngát

Tôi cũng tập đánh vần

Hoa đồng tràn thi tứ

Chim trời dệt đoạn văn

Chẳng có gì toàn bích

Nào ai biết vì đâu

Huệ thơm và gai sắc

Vẫn mọc cài vào nhau

Khi dưới xa, sáo hót

Từ đám sậy bên sông

Sắc ngọc nào loáng bạc

Quẫy trên mỏ chú mòng

Đấy chính con cá nhỏ

Vừa săn mồi kiếm ăn

Giữa mờ xanh làn nước

Nơi tai ương trong ngần

Tiếng súng vang, chó sủa

Lại có người đi săn

Trong không gian yên ả

Lòng tôi nhói vết thương

Tôi buồn phiền nghĩ suy

Điều xấu xa, kỳ lạ

Trang đời đẹp nhường kia

Trời chép sai chính tả

Tặng Jan À Jeanne

À Jeanne

Ces lieux sont purs; tu les complètes.

Ce bois, loin des sentiers battus,

Semble avoir fait des violettes,

Jeanne, avec toutes tes vertus.

L’aurore ressemble à ton âge;

Jeanne, il existe sous les cieux

On ne sait quel doux voisinage

Des bons coeurs avec les beaux lieux.

Tout ce vallon est une fête

Qui t’offre son humble bonheur;

C’est un nimbe autour de ta tête;

C’est un éden en ton honneur.

Tout ce qui t’approche désire

Se faire regarder par toi,

Sachant que ta chanson, ton rire,

Et ton front, sont de bonne foi.

Ô Jeanne, ta douceur est telle

Qu’en errant dans ces bois bénis,

Elle fait dresser devant elle

Les petites têtes des nids.

Có Jan, chốn ấy thêm trong sạch

Và cánh rừng, xa khuất nẻo đường mòn

Đang nở rộ những chùm hoa tím ngát

Hương toả thơm từ vẻ đẹp tâm hồn

Bình minh như tuổi em toả sáng

Em mến yêu, ôi gần gũi dịu hiền

Cảnh sắc đẹp và tấm lòng mở rộng

Khắp phương trời liệu có chốn nào hơn!

Nương đồi này đang tưng bừng mở hội

Dâng tặng em cả hạnh phúc khiêm nhường

Với một vầng hào quang sáng chói

Cùng cõi tiên đang náo nức đón mừng

Ai gần gũi đều mong em nhìn tới

Đều nhận ra từ tiếng hát của em

Từ vầng trán và nụ cười rộng mở

Tất cả đều chan chứa yêu tin

Em yêu mến, vẻ dịu hiền kiều diễm

Đang toả lan tô đẹp những cánh rừng

Cả những chú chim non chưa rời tổ

Cũng rướn đầu mê mải ngóng trông

Tập thơ: Năm khủng khiếp L’année terrible (1872)

Viro major

Ayant vu le massacre immense, le combat

Le peuple sur sa croix, Paris sur son grabat,

La pitié formidable était dans tes paroles.

Tu faisais ce que font les grandes âmes folles

Et, lasse de lutter, de rêver de souffrir,

Tu disais: “j’ai tué!” car tu voulais mourir.

Tu mentais contre toi, terrible et surhumaine.

Judith la sombre juive, Aria la romaine

Eussent battu des mains pendant que tu parlais.

Tu disais aux greniers: “J’ai brûlé les palais!”

Tu glorifiait ceux qu’on écrase et qu’on foule.

Tu criais: “J’ai tué! Qu’on me tue! – Et la foule

Ecoutait cette femme altière s’accuser.

Tu semblais envoyer au sépulcre un baiser;

Ton oeil fixe pesait sur les juges livides;

Et tu songeais pareille aux graves Euménides.

La pâle mort était debout derrière toi.

Toute la vaste salle était pleine d’effroi.

Car le peuple saignant hait la guerre civile.

Dehors on entendait la rumeur de la ville.

Cette femme écoutait la vie aux bruits confus

D’en haut, dans l’attitude austère du refus.

Elle n’avait pas l’air de comprendre autre chose

Qu’un pilori dressé pour une apothéose;

Et, trouvant l’affront noble et le supplice beau

Sinistre, elle hatait le pas vers le tombeau

Les juges murmuraient: “Qu’elle meure! C’est juste

Elle est infâme – A moins qu’elle ne soit Auguste”

Disait leur conscience. Et les jugent, pensifs

Devant oui, devant non, comme entre deux récifs

Hésitaient, regardant la sévère coupable.

Et ceux qui, comme moi, te savent incapable

De tout ce qui n’est pas héroisme et vertu,

Qui savent que si l’on te disait: ” D’ou viens tu? ”

Tu répondrais: “Je viens de la nuit ou l’on souffre;

Oui, je sors du devoir dont vous faites un gouffre!

Ceux qui savent tes vers mystérieux et doux,

Tes jours, tes nuits, tes soins, tes pleurs donnés à tous,

Ton oubli de toi-même à secourir les autres,

Ta parole semblable aux flammes des apôtres;

Ceux qui savent le toit sans feu, sans air, sans pain

Le lit de sangle avec la table de sapin

Ta bonté, ta fierté de femme populaire.

L’âpre attendrissement qui dors sous ta colère

Ton long regard de haine à tous les inhumains

Et les pieds des enfants réchauffés dans tes mains;

Ceux-la, femme, devant ta majesté farouche

Méditaient, et malgré l’amer pli de ta bouche

Malgré le maudisseur qui, s’acharnant sur toi

Te jetai tout les cris indignés de la loi

Malgré ta voix fatale et haute qui t’accuse

Voyaient resplendir l’ange à travers la méduse.

Tu fus haute, et semblas étrange en ces débats;

Car, chétifs comme tous les vivants d’ici-bas,

Rien ne les trouble plus que deux âmes mêlées

Que le divin chaos des choses étoilées

Aperçu tout au fond d’un grand coeur inclément

Et qu’un rayonnement vu dans un flamboiement.

Xem thêm:  Status hay khi đăng ảnh đi du lịch hot nhất 2020

Nàng đã thấy cuộc thảm sát khổng lồ, thấy chiến tranh

Thấy nhân dân thống khổ và Paris đổ vỡ tan tành

Lời nàng tha thiết mối tình thương vĩ dại

Nàng đã hành động như những tâm hồn thanh cao điên dại

Đã chán chường chém giết, ước mơ và rên xiết

Nàng đã nói: “Ta đã giết!” bởi vì nàng muốn chết

Nàng tự dối mình, ôi khủng khiếp phi thường

Nàng Judith lầm lì, người Do Thái, và nàng Aria, người La Mã kiên cường

Nghe nàng nói sẽ phải vỗ tay khâm phục

Nàng bảo người nghèo: “Ta đã đốt lâu đài”

Nàng ngợi ca những ai bị cuộc đời giẫm nát

Nàng thét lên: “Ta đã giết, nay giết ta đi” Và đám đông

Nghe người phụ nữ tự kết tội, hiên ngang

Nàng đắm đuối nhìn ngôi nhà mồ trước mặt

Nàng trừng mắt nhìn những quan toà xám ngắt

Và như thiên thần Euménides nàng đăm chiêu

Bóng Thần Chết nhợt nhạt đứng đằng sau

Cả gian phòng thênh thang đầy khủng khiếp

Vì nhân dân đẫm máu, đã chán ghét cuộc tương tàn

Từ bên ngoài, vẳng lại tiếng huyên náo của cuộc đời dội tới

Mà từ trên cao nàng khăng khăng từ chối

Nàng như chẳng muốn thấy gì

Ngoài cực hình đưa lên đài vinh quang tráng lệ

Thấy sỉ nhục là thanh cao, tội hình là đẹp đẽ

Và đau thương, nàng bước vội đến bên mồ

Bọn quan toà nói nhỏ: “Nó phải chết, đó là công lý

Một con mụ xấu xa!” Nhưng lương tâm họ thì thầm:

“Hay ít ra một tâm hồn cao cả!” Họ suy nghĩ:

Có tội hay không có tội – Họ đứng giữa hai con đường hiểm hóc

Do dự nhìn tội nhân nghiêm khắc

Những ai, như tôi, biết nàng không thể

Làm gì khác những việc anh hùng và đạo lý

Những ai biết, nếu Thượng đế hỏi nàng: “Người từ đâu tới?”

Nàng sẽ đáp: “Tôi đến từ đêm tối đau thương

Từ nhiệm vụ mà Chúa tạo thành vực thẳm”

Những ai biết những vần thơ êm đềm và bí ẩn

Những ngày, đêm, những giọt lệ, những ân cần

Đức hi sinh để cứu vớt nhân dân

Lời nàng nói như lửa cháy, của người truyền đạo

Những ai biết căn nhà không lửa ấm, tối tăm không cơm cháo

Tấm giường da, và chiếc bàn nhỏ gỗ thông

Biết lòng nàng nhân hậu và niềm tự hào đơn giản

Con mắt nhìn căm giận kẻ bất lương

Và bàn chân trẻ nhỏ trong đôi tay ấm tình thương

Những người ấy, nàng hỡi, trước nàng, oai nghiêm ác liệt

Phải trầm ngâm, mặc nét nhăn bên môi chua chát

Mặc kẻ thoá mạ hung hăng doạ nạt

Mặc những lời phẫn nộ của luật pháp hét hò

Mặc lời nàng tự buộc tội, cất cao và tàn nhẫn

Thấy, dưới con quỷ xấu xa, thiên thần rực rỡ

Một thiếu phụ đã kể chuyện này Une femme m’a dit ceci

Une femme m’a dit ceci

Une femme m’a dit ceci: ─ J’ai pris la fuite.

Ma fille que j’avais au sein, toute petite,

Criait, et j’avais peur qu’on n’entendît sa voix.

Figurez-vous, c’était un enfant de deux mois;

Elle n’avait pas plus de force qu’une mouche.

Mes baisers essayaient de lui fermer la bouche,

Elle criait toujours; hélas! elle râlait.

Elle voulait téter, je n’avais plus de lait.

Toute une nuit s’était de la sorte écoulée.

Je me cachais derrière une porte d’allée,

Je pleurais, je voyais les chassepots briller.

On cherchait mon mari qu’on voulût fusiller.

Tout à coup, le matin, sous cette horrible porte,

L’enfant ne cria plus. Monsieur, elle était morte.

Je la touchai; monsieur, elle était froide. Alors,

Cela m’était égal qu’on me tuât; dehors,

Au hasard, j’emportai ma fille, j’étais folle,

J’ai couru, des passants m’adressaient la parole,

Mais je me suis enfuie, et, je ne sais plus où,

J’ai creusé de mes mains dans la campagne un trou,

Au pied d’un arbre, au coin d’un enclos solitaire;

Et j’ai couché mon ange endormi dans la terre;

L’enfant qu’on allaita, c’est dur de l’enterrer.

Et le père était là qui se mit à pleurer.

Một thiếu phụ đã kể chuyện này: – Em chạy nạn

Cùng cháu gái sơ sinh luôn miệng khóc gào

Em sợ xung quanh vì em mà mang hận

Cháu hai tháng tuổi biết làm sao?

Cháu đâu khoẻ hơn một con ruồi nhỏ

Em hôn cháu, mong nó đừng khóc nữa

Một đêm dài cứ thế trôi đi

Than ôi! Cháu vẫn kêu rên, thở khò khè

Cháu muốn bú nhưng em đâu còn sữa

Em khóc. Nhìn thấy tia sáng loé đầu súng nổ

Họ săn chồng em để đem bắn bỏ

Đến sáng, sau cánh cửa đầy kinh hoàng

Cháu bỗng thôi khóc. Thưa ông, cháu đã lìa trần

Sờ người cháu thì, ông ơi, chỉ còn lạnh ngắt

Lúc ấy, chẳng sợ gì dù là bị giết

Em ẵm xác con, lòng dạ dại điên

Em chạy, vẳng bên tai đôi chỗ có người khuyên

Em trốn, không biết về đâu nữa

Tới vùng quê, tự tay em đào hố

Dưới gốc cây, góc vườn nhỏ quạnh hiu

Rồi vùi thiên thần của em dưới đất, một chiều

Chôn con đang măng sữa thật dứt gan dứt ruột

Xem thêm:  Bài thơ Anh Không Trách Em Đâu – Nhà thơ Dương Hoàng

Và người bố đứng bên khóc oà lên não nuột

Người mẹ bảo vệ con thơ La mere qui defend son petit

La mere qui defend son petit

Au milieu des forêts, asiles des chouettes,

Où chuchotent tout bas les feuilles inquiètes,

Dans les halliers, que semble emplir un noir dessein,

Pour le doux nouveau-né qui frissonne à son sein,

Pour le tragique enfant qu’elle emporte effarée,

Dès qu’elle voit la nuit croître, sombre marée,

Dès que les loups obscurs poussent leurs longs abois,

Oh! le sauvage amour de la femme des bois!

Tel est Paris. La ville où l’Europe se mêle,

Avec le droit, la gloire et l’art, triple mamelle,

Allaite cet enfant céleste, l’Avenir.

On entend les chevaux de l’aurore hennir

Autour de ce berceau sublime. Elle, la mère

De la réalité qui commence en chimère,

La nourrice du songe auguste des penseurs,

La ville dont Athène et Rome sont les soeurs,

Dans le printemps qui rit, sous le ciel qui rougeoie,

Elle est l’amour, elle est la vie, elle est la joie.

L’air est pur, le jour luit, le firmament est bleu.

Elle berce en chantant le puissant petit dieu.

Quelle fête! elle montre aux hommes, fière, gaie,

Ce rêve qui sera le monde et qui bégaie,

Ce tremblant embryon du nouveau genre humain,

Ce géant, nain encor, qui s’appelle Demain,

Et pour qui le sillon des temps futurs se creuse;

Sur son front calme et tendre et sur sa bouche heureuse

Et dans son oeil serein qui ne croit pas au mal,

Elle a ce radieux sourire, l’idéal.

On sent qu’elle est la ville où l’espérance habite;

Elle aime, elle bénit ; mais si, noirceur subite,

L’éclipse vient, et donne aux peuples le frisson,

Si quelque vague monstre erre sur l’horizon,

Si tout ce qui serpente, écume, rampe et louche,

Vient menacer l’enfant divin, elle est farouche;

Alors elle se dresse, alors elle a des cris

Terribles, et devient le furieux Paris;

Elle gronde et rugit, sinistrement vivante,

Et celle qui charmait l’univers, l’épouvante.

Giữa rừng sâu, nơi cú mèo trú ẩn

Nơi thì thầm những chiếc lá lo âu

Trong bụi rậm, đầy âm mưu đen tối một màu

Vì đứa trẻ sơ sinh run run bên vú sữa

Vì đứa con bi thảm, người mẹ hoảng sợ mang đi

Khi thấy đêm thẳm, như triều dâng bóng tối

Khi gầm rít, trong đêm khuya, đàn sói

Ôi! tình yêu man rợ của người phụ nữ rừng sâu!

Paris là như thế

Thành phố, hình ảnh pha trộn của Châu Âu

Mà Luật pháp, Vinh quang và Nghệ thuật – ba nguồn sữa

Nuôi dưỡng đứa trẻ tuyệt vời: Tương lai

Hí vang rền, tiếng ngựa của bình minh

Quanh cái nôi kỳ diệu. Và người mẹ

Người mẹ của sự thật, ảo ảnh lúc ban đầu

Người nhũ mẫu của giấc mộng uy nghiêm những nhà tư tưởng

Người em gái của A-ten và thành La-mã

Trong xuân tươi dưới bầu trời rực đỏ

Người là Tình yêu, là Niềm vui và Cuộc sống

Trời xanh, nắng toả, ngày trong sáng

Người mẹ hát, ru đấng thiên thần bé nhỏ, uy nghi

Bao hoan hỉ, người mẹ khoe, trong niềm vui và kiêu hãnh

Giấc mơ xinh, còn bập bẹ, sẽ trở thành một thế giới mai sau

Cái mầm non của loài người, nay còn run rẩy

Người khổng lồ, nay là tí hon, và tên gọi: Ngày mai

Mà thời gian, vì đứa bé, đang đào luống cày sâu

Trên vầng trán yên bình, âu yếm: trên đôi môi hạnh phúc

Trong con mắt trong xanh không tin vào tội ác

Bà mẹ nở nụ cười rạng rỡ, thanh cao

Ta cảm thấy người mẹ là thành phố hi vọng dạt dào

Đầy tình thương và phúc hậu. Nhưng nếu bất ngờ

Mây đen kéo đến, làm nhân dân run sợ

Nếu nơi chân trời lảng vảng một đợt sóng khổng lồ

Nếu có gì trườn đến, sùi bọt mép, bò quanh

Đến đe doạ đứa con thần thánh

Bà sẽ đứng dậy, thét lên, kinh sợ

Sẽ trở thành một Paris hung dữ

Sẽ vùng lên, kinh hoàng, gầm rú

Bà là khủng khiếp – người đã làm vũ trụ mê say

Thư gửi người phụ nữ (trích) Lettre à une femme (extrait)

Lettre à une femme (extrait)

Paris terrible et gai combat. Bonjour, madame

On est un peuple, on est un monde, on est une âme



Paris est un héros, Paris est une femme



Moi, je suis là, joyeux de ne voir rien plier.

Je dis à tous d’aimer, de lutter, d’oublier,

De n’avoir d’ennemi que l’ennemi; je crie:

Je ne sais plus mon nom, je m’appelle Patrie!

Quant aux femmes, soyez très fière, en ce moment

Où tout penche, elles sont sublimes simplement.



Ces temps sont revenus. La géante féline,

La Prusse tient Paris, et, tigresse, elle mord



Elles acceptent tout, les femmes de Paris,

Leur âtre éteint, leurs pieds par le verglas meurtris,

Au seuil noir des bouchers les attentes nocturnes,

La neige et l’ouragan vidant leurs froides urnes,

La famine, l’horreur, le combat, sans rien voir

Que la grande pairie et que le grand devoir;



On fraternise, on rêve un succès; nous offrons

Nos coeurs à l’espérance, à la foudre nos fronts.



Eh bien, on aura froid! eh bien, on aura faim!

Qu’est cela? C’est la nuit. Et que sera la fin?

L’aurore. Nous souffrons, mais avec certitude.

La Prusse est le cachot et Paris est Latude.

Courage! on refera l’effort des jours anciens.

Paris avant un mois chassera les Prussiens.

Chào bà

Vui vẻ và dữ dội Paris đang chiến đấu

Chúng ta là một dân tộc, một thế giới, một tâm hồn



Paris là một phụ nữ, một anh hùng



Tôi ở đó và hân hoan phấn khởi

Chẳng thấy gì quỳ gục trước phong ba

Chuyện trò cùng mọi người tôi nói

Hãy yêu nhau, chiến đấu mỗi chúng ta

Và quên đi, chỉ nhằm đúng kẻ thù ta

Tôi quên cả tên, tôi là Tổ quốc

Hãy tự hào, các bà, phụ nữ ta phút chốc

Trong quốc nạn vụt lớn lên cao cả



Giờ cứu quốc đã điểm. Con khổng lồ

Ác thú Phổ phong toả, pháo kích Paris



Họ chấp nhận tất cả, phụ nữ Paris

Bếp tắt lửa, chân nứt nẻ vì băng tuyết

Chờ mua thịt thâu đêm trong gió rét

Bất chấp chiến trận, bão bùng không sợ mệt

Chỉ hướng về tổ quốc và nghĩa vụ thiêng liêng



Chúng ta đồng tâm, cầu mơ chiến thắng

Với tất cả niềm hy vọng trong tim



Và đương đầu với sấm sét, say hăng

Mặc đói dày vò và rét buốt thịt xương

Đó là gì? – Đêm tối. Và kết cục?

Là bình minh. Phải, chúng ta chịu đựng

Nhưng với niềm tin không thể chuyển rung

Nước Phổ là lao tù, và Paris là Latude

Dũng cảm lên! Ta sẽ tái tạo những nỗ lực

Ngày xưa Paris trong không đầy một tháng

Sẽ đẩy lùi bọn quân Phổ bạo tàn

Xem thêm:  Tế Hanh cùng những thi phẩm dịch của József Attila phần 2

Trên chiến luỹ Sur une barricade

Sur une barricade

Sur une barricade, au milieu des pavés

Souillés d’un sang coupable et d’un sang pur lavés,

Un enfant de douze ans est pris avec des hommes.

– Es-tu de ceux-là, toi? – L’enfant dit: Nous en sommes.

– C’est bon, dit l’officier, on va te fusiller.

Attends ton tour. – L’enfant voit des éclairs briller,

Et tous ses compagnons tomber sous la muraille.

Il dit à l’officier: Permettez-vous que j’aille

Rapporter cette montre à ma mère chez nous?

– Tu veux t’enfuir? – Je vais revenir. – Ces voyous

Ont peur! où loges-tu? – Là, près de la fontaine.

Et je vais revenir, monsieur le capitaine.

– Va-t’en, drôle! – L’enfant s’en va. – Piège grossier!

Et les soldats riaient avec leur officier,

Et les mourants mêlaient à ce rire leur râle ;

Mais le rire cessa, car soudain l’enfant pâle,

Brusquement reparu, fier comme Viala,

Vint s’adosser au mur et leur dit: Me voilà.

Trên chiến luỹ dựng giữa đường,

Một em bé, tuổi mười hai, bị bắt cùng với người nhớn

Mình đẫm máu me của kẻ thù dơ bẩn

Và cũng thơm tho những giọt máu anh hùng

– “Có phải mày cũng thuộc nhóm này không?”

Em bé giả nhời: “Đúng vậy!”

– “Được, mày sẽ bị bắn ngay! Hãy ngồi chờ đấy.”

Và em thấy

Quanh em, trong tiếng súng, trong tiếng rên la,

Trong ánh chớp

Các đồng chí của mình tiếp theo nhau ngã gục

Em bỗng nói: “Hãy cho tôi về nhà

Trao chiếc đồng hồ cho mẹ, rồi tôi sẽ ra.”

– “Mày định chuồn chăng?” – “Tôi sẽ trở lại.”

– “À, chúng mày rõ ràng là đang sợ hãi

Thôi cho cút! “Và bọn lính cười ồ:

– “Lại một trò lừa bịp ngây ngô”

Nhưng tiếng cười im bặt

Vì em bé, mặt tím ngắt

Bỗng trở lại bất ngờ, với vầng trán như Viala kiêu hãnh tràn đầy

Đến dựa lưng vào tường. Và nói: “Tôi đây!”…

Trong bóng tối Dans l’ombre

Dans l’ombre

LE VIEUX MONDE

O flot, c’est bien. Descends maintenant. Il le faut.

Jamais ton flux encor n’était monté si haut.

Mais pourquoi donc es-tu si sombre et si farouche?

Pourquoi ton gouffre a-t-il un cri comme une bouche?

Pourquoi cette pluie âpre, et cette ombre, et ces bruits,

Et ce vent noir soufflant dans le clairon des nuits?

Ta vague monte avec la rumeur d’un prodige!

C’est ici ta limite. Arrête-toi, te dis-je.

Les vieilles lois, les vieux obstacles, les vieux freins,

Ignorance, misère et néant, souterrains

Où meurt le fol espoir, bagnes profonds de l’âme,

L’ancienne autorité de l’homme sur la femme,

Le grand banquet, muré pour les déshérités,

Les superstitions et les fatalités,

N’y touche pas, va-t’en! ce sont les choses saintes.

Redescends, et tais-toi! j’ai construit ces enceintes

Autour du genre humain et j’ai bâti ces tours.

Mais tu rugis toujours! mais tu montes toujours!

Tout s’en va pêle-mêle à ton choc frénétique.

Voici le vieux missel, voici le code antique.

L’échafaud dans un pli de ta vague a passé.

Ne touche pas au roi! ciel! il est renversé.

Et ces hommes sacrés! je les vois disparaître.

Arrête! c’est le juge. Arrête! c’est le prêtre.

Dieu t’a dit: Ne va pas plus loin, ô flot amer!

Mais quoi! tu m’engloutis! au secours, Dieu! la mer

Désobéit! la mer envahit mon refuge!

LE FLOT

Tu me crois la marée et je suis le déluge.

THẾ GIỚI CŨ

Thôi, hỡi thuỷ triều. Ngươi phải rút ngay

Có bao giờ nước dâng lớn thế này?

Tại sao ngươi ủ dột và hung dữ

Vực thẳm nơi ngươi kêu lên như ác thú?

Do đâu mưa xối xả, nào bóng đen, nào những tiếng ồn

Sóng của ngươi dâng trong tiếng ầm ì kỳ ảo!

Tới mức rồi. Thôi ngay đi! Ta bảo!

Rút ngay, chớ đụng vào những vật thiêng liêng

Luật pháp xưa, trở lực xưa và những bộ gông xiềng

Hư không, bần cùng và dốt nát

Là miếng đất chôn ảo vọng, giam tâm hồn trong hầm sắt

Quyền lực xưa của đàn ông đối với đàn bà

Yến tiệc linh đình cấm người bạc phận tham gia

Những điều tiền định và mê tín

Rút xuống, câm ngay! Ta đã dựng bức tường vây kín

Cả loài người, ta đã xây những tháp lớn này

Sao ngươi gầm thét không thôi? Sao ngươi dâng mãi đêm ngày?

Ngươi húc điên cuồng gây bao đổ vỡ

Đây bộ luật xưa, đây kinh lễ cổ

Trên nếp sóng của ngươi, máy chém đã kề tận cổ

Không được đụng tới nhà vua! Trời! Người bị lật nhào

Không được đụng các chức sắc thiêng liêng!

Ôi họ biến đằng nào?

Dừng ngay! Eo ôi, ngài thẩm phán

Dừng ngay! Eo ôi, ngài khâm mạng

Chúa hằng phán: không được sa đà, thuỷ triều quá trớn

Sao vậy? Nguơi nuốt chửng cả ta!

Cứu vớt con, lạy Chúa danh sáng bao la!

Thuỷ triều ngang bướng chiếm nơi con ngự trị!

SÓNG DỮ

Mi ngỡ ta là thuỷ triều, ta lại là hồng thuỷ

Vụ xử án cách mạng Le procès à la révolution

Le procès à la révolution

Lorsque vous traduisez, juges, à votre barre,

La Révolution, qui fut dure et barbare

Et féroce à ce point de chasser les hiboux;

Qui, sans respect, fakirs, derviches, marabouts,

Molesta tous les gens d’église, et mit en fuite,

Rien qu’en les regardant, le prêtre et le jésuite,

La colère vous prend.

Oui, c’est vrai, désormais

L’homme-roi, l’homme-dieu, fantômes des sommets,

S’effacent, revenants guerriers, goules papales;

Un vent mystérieux souffle sur ces fronts pâles;

Et vous, le tribunal, vous êtes indignés.

Quel deuil! les noirs buissons de larmes sont baignés;

Les fêtes de la nuit vorace sont finies;

Le monde ténébreux râle; que d’agonies!

Il fait jour, c’est affreux! et la chauve-souris

Est aveugle, et la fouine erre en poussant des cris;

Le ver perd sa splendeur; hélas, le renard pleure;

Les bêtes qui le soir allaient chasser, à l’heure

Où le petit oiseau s’endort, sont aux abois;

La désolation des loups remplit les bois;

Les spectres opprimés ne savent plus que faire;

Si cela continue, et si cette lumière

Persiste à consterner l’orfraie et le corbeau,

Le vampire mourra de faim dans le tombeau ;

Le rayon sans pitié prend l’ombre et la dévore… –

O juges, vous jugez les crimes de l’aurore.

Victor Hugo là một cây viết vĩ đại có đóng góp to lớn đối với nền văn học Pháp và nền văn học thế giới. Những tác phẩm văn thơ để đời của Victor Hugo đều mang giá trị nhân văn to lớn.

Xem tiếp: Victor Hugo – Cây bút văn thơ vĩ đại của thế giới P2

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …