Nhà Thơ Hoàng Trung Thông là một nhà thơ được biết đến với khả năng sáng tác thơ trời phú. Thơ ông mang đến những nguồn cảm hứng mới lạ cho bạn đọc. Những bài thơ với ngôn ngữ nhẹ nhàng nhưng đầy tính triết lý và thời sự cao nên rất gần gũi với mọi người
Ông được rất nhiều giải thưởng lớn về văn học nghệ thuật, đó cũng chính là sự công nhận đóng góp của ông trong nền thơ ca Việt Nam. Sự học hỏi, tìm tòi khiến cho thơ ông có một nét riêng không thể lẫn lộn được. Ngoài ra ông có rất nhiều tác phẩm dịch đặc sắc được nhiều bạn đọc quan tâm
Nếu bạn là một người thích sưu tầm những bài thơ hay thì đây chính là một bài viết hữu ích cho bạn để bạn có thể làm mới bộ sưu tập của mình đấy! Thuvientho.com sẽ dành tặng bạn phần cuối những bài thơ còn lại của Hoàng Trung Thông. Đừng bỏ lỡ nhé!
Lão hai Thôi trở về 崔二爷又回来了
大红睛天下猛雨,鸡毛信传来了坏消息。
拿了鸡毛信不住气地跑,压迫人的白军又来了!
游击队连夜开到白军屁股后边去,上级命令去打游击。
吹起哨子背起枪,王贵没顾上去看香香。
死羊湾夜里听到信,第二天大清早白军可进了村。
白军个个黑丧着脸,就好像谁都短他们二百钱。
东家搜来西家问:”谁家有人随了红军?
“谁家分了牛和羊?谁家分地又分房?”
牛四娃分了一孔窖,三查两问查出来了。
崔二爷的大门宽又高,两根麻绳吊起了。
两把荆条一把刺,浑身打成血丝丝!
白军连长没头鬼,叉着手来裂着嘴:
“干井里打不出清水来,天生的穷骨头想发便宜财!
“阎王爷叫你当穷汉,斜头歪脑还想把身翻。
“仗着你红军老子势力大,屎蚵螂还想推泰山!”
绳子捆来刺刀逼,崔二爷的东西都要回去。
狗腿子开路狼跟有后边,崔二爷又回到死羊湾。
长袍马褂文明棍,崔二爷还是那个鬼样子。
东家溜来西家串:”想发我姓崔的洋财是枉然;
“前朝古代也有人造反,这些事情不稀罕。
“世上有怪事,天上也一样,天狗还能吃月亮;
“嘴里吃来屁股里巴,月亮还是亮光光。
“自古一正压百邪,妖魔作乱不久长。
“真龙天子是个谁,死羊湾的天下还姓崔!”
本性难改狗吃屎,崔二爷对香香心还没有死。
打发李德瑞去支差,崔二爷来到他家里。
露着牙齿只是个笑:”小香香我又回来了;
“过去的事情我全不记,只要你乖乖地跟我去。
“你那红军老汉跑得没踪,活活守寡我心里不安生;
“不要再任性,你跟上我,有吃有穿真受活。”
香香又羞又气又害怕,低着头来不说话。
崔二爷当他受顺从来,浑身发痒心里似火烧。
屋里没人崔二爷胆子大,照着脸上捏了一把;
顺水推舟亲了一个嘴,–大白天他想胡日鬼!
香香气急往外跑,一边跑来一边叫。
满脸笑着把门堵:”女人家做事真糊涂!”
说着说着又上前,香香把唾沫吐了他一脸;
双脚乱踢手乱抓,狗脸上留下了两个疤疤。
邻居们都来看热闹,崔二爷害臊往回跑。
临走对着香香说:”看你闹的算个啥?
“打开窗子把话说个明,
这一回你从也要从,不从也要从!
Bản Dịch
Trời trong sáng bỗng mưa rơi tầm tã
Tin lông gà bỏ lửa tới nơi
Người mang tin chạy đứt hơi
Bạch quân bỗng lại về rồi, mấy bên
Đội du kích ngày đêm tiến tới
Lệnh trên về ta phải đánh ngay
Súng gươm canh gác đêm ngày
Quý không còn nghĩ rảnh tay về nhà
Bến Tử Dương tin ra buổi tối
Hai hôm sau giặc tới đầu thôn
Bạch quân mặt mũi đen ngòm
Nó đi sục sạo như còn thiếu lương
Sục sạo hết đầu làng cuối xóm:
– “Có nhà nào theo bọn Hồng quân?
Đứa nào bò được chia phần?
Đứa nào được lĩnh ruộng vườn trước kia?”
Ngưu Tứ Hoa được chia hố ở
Chúng điều tra tận chỗ tận nơi
Cổng ngăn cao lớn lão Thôi
Chúng đà treo sẵn đến hai sợi thừng
Gai hai nắm, dùi cầm nhọn hoắt
Chịu đầy người thịt nát thương đau
Thằng quan như quỷ không đầu
Chéo tay, đứng vặn từng câu toác mồm:
– ” Giếng khô cạn sao còn có nước?
Thằng nghèo mà muốn được giàu sang?
Diêm Vương bắt phải nghèo nàn
Xiêu đầu vẹo cổ mà toan vươn mình?
Bọn Hồng quân mà tin thế lực?
Con bọ hung đòi húc Thái sơn?
Của đâu trả lại sạch trơn
Hồng quân thế ấy cũng còn tin sao?”
Sợi dây treo, mũi dao bắt buộc
Của phân chia phải nộp lão Thôi
Theo sau gót sói về rồi
Tay sai cùng với lão Thôi về làng
Áo bào mặc, roi mang, ngựa cưỡi
Rõ tuồng chi là thứ tanh hôi
Đông tây chạy khắp mọi nơi:
“Bay toan chiếm của họ Thôi chớ hòng
Triều xưa cũng có thằng phản bội
Hạng như bay ít ỏi gì đâu
Việc trời việc đất giống nhau
Chó kia ăn nổi thế nào ánh trăng
Miệng ăn bẩn thỉu thì ăn
Ánh trăng vẫn cứ sáng trưng mãi mà
Một ngày trị trăm tà cũng nổi
Số yêu ma ngắn ngủi mà thôi!
Chân long thiên tử là ai?
Tử Dương là của họ Thôi một mình”
Chó thì quen thói ăn phân
Lão Thôi thì vẫn giữ phần dâm ô
Bắt ông Lý đi ra tiền tuyến
Nó vội vàng tìm đến Hương Hương
Cười nhe răng đã mốc vàng:
“Hương ơi! ta lại về làng với em
Chuyện xưa ta thật đã quên
Cần em ngoan ngoãn đi liền với ta
Quý kia mất tích đâu xa
Để em goá bụa lòng ta không đành
Hãy theo ta em đừng do dự
Sướng thân em sống ở trên đời”
Hương Hương chẳng nói nửa lời
Trong lòng tức giận, hổ ngươi, hãi hùng
Lão Thôi tưởng vậy là ưng
Khắp người ngứa ngáy, lòng bừng nóng sôi
Nhìn quanh vắng vẻ trong ngoài
Nó liền níu chặt lấy người Hương Hương
Nó hôn lên má vội vàng
(Ban ngày nó vẫn lăng loàn sợ ai?)
Hương tức giận ra ngoài đi vội
Vừa chân đi vừa gọi xóm làng
Lão Thôi chắn lấy cửa buồng:
“Cô em, thật đã lằng nhằng vẩn vơ”
Vừa cười nói nó vừa tiến sát
Hương nhổ tung vào mặt nó ngay
Nhón chân cào cấu liền tay
Lão Thôi sứt cả mặt mày cuống lên
Làng xóm đến nghìn nghìn trước cửa
Nó vội vàng hoảng sợ lùi chân
Đi ra còn nói lại rằng:
– “Xem mày có giỏi thì làm chi đây?
Mở ra, tao nói cho hay
Nhất định lần này, mày phải lấy tao”
Tự do kết hôn 自由结婚
太阳出来遍地红,革命带来了好光景。
崔二爷在时就象大黑天,十有九家没吃穿。
穷人翻身赶跑崔二爷,死羊湾变成活羊湾。
灯盏里没油灯不明,庄户人没地种就象没油的灯;
有了土地灯花亮,人人脸上发红光。
吃一嘴黄连吃一嘴糖,王贵娶了李香香。
男女自由都平等,自由结婚新时样。
唐僧取经过了七十二个洞,他们俩受的折磨数不清。
千难万难心不变,患难夫妻实在甜。
俊鸟投窝叫喳喳,香香进洞房泪如麻。
清泉里淌水水不断,滴湿了王贵的新布衫。
“半夜里就等着公鸡叫,为这个日子把人盼死了。”
香香想哭又想笑,不知道怎么说着好。
王贵笑的说不出来话,看着香香还想她!
双双拉着香香的手,难说难笑难开口:
“不是闹革命穷人翻不了身,不是闹革命咱俩也结不了婚!
“革命救了你和我,革命救了咱们庄户人。
“一杆红旗要大家扛,红旗倒了大家都遭殃。
“快马上路牛耕地,闹革命是咱们自己的事。
“天上下雨地下滑,自己跌倒自己爬。
“太阳出来一股劲地红,我打算长远闹革命。”
过门三天安了家,游击队上报名啦。
羊肚子手巾缠头上,肩膀上背着无烟钢。
十天半月有空了,请假回来看香香。
看罢香香归队去,香香送到沟底里。
沟湾里胶泥黄又多,挖块胶泥捏咱两个;
捏一个你来捏一个我,捏的就象活人脱。
摔碎了泥人再重和,再捏一个你来再捏一个我;
哥哥身上有妹妹,妹妹身上也有哥哥。
捏完了泥人叫哥哥,再等几天你来看我。
Bản Dịch
Đất sáng hồng vì mặt trời lên
Quang cảnh đẹp vì có người cách mạng
Còn lão Thôi, đất trời không ánh sáng
Trong mười người, chín chẳng áo cơm
Đuổi lão Thôi trốn chạy ngoài thôn
Bến “dê chết” đã thành “dê sống”
Đèn không dầu đèn không lửa sáng
Dân cày không ruộng khổ làm sao
Có ruộng rồi như đèn tỏ rạng
Mặt mọi người tươi thắm như nhau
Ăn miếng hoàng liên, ăn miếng đường vào
Vương Quý lấy Hương Hương làm vợ
Đời bình đẳng tự do nam nữ
Cùng tự do xây dựng gia đình
Đường Tăng qua động lấy kinh
Quý, Hương cùng chịu đủ vành đắng cay
Nghìn gian khổ lòng này chẳng chuyển
Có gian nan mới nếm ngọt bùi
Chim về tổ ấm kêu vui
Vui mừng Hương đã lệ rơi ướt đầm
Suối trong, nước chảy không ngừng
Ngồi bên, Quý đã áo đầm lệ rơi
“Chờ khuya gà đã gáy rồi
Ngày sao ngắn ngủi nhìn thôi lại nhìn”
Muốn cười muốn khóc liên miên
Ngồi lâu Hương chửa nói lên lời nào
Cười vui chưa biết nói sao
Nhìn Hương, Quý nghĩ biết bao nhiêu tình!
Bàn tay nắm tay mình thân ái
Thật khó cười khó nói cho nên
“Xưa kia không thể vùng lên
Nếu không cách mạng khó nên vợ chồng
Công ơn cách mạng vô cùng
Cứu ta, cứu cả, cứu chung dân cày
Cờ hồng quyết chẳng rời tay
Cờ hồng không vững, ta rày khổ luôn
Trâu cày ruộng, ngựa đi đường
Đấu tranh cách mạng, việc thường của ta!”
– “Đường trơn vì có mưa sa
Người ta ngã xuống, chân ta phải bò
Mặt trời chói một vầng to
Em theo cách mạng quyết cho đến cùng”
Ba ngày đã xếp thu xong
Quý đi nhập ngũ trong lòng vui sao
Khăn da quấn chặt trên đầu
Quý đi lúc lắc sau đầu súng mang
Mươi ngày công việc rảnh rang
Lại xin phép được thăm Hương một lần
Thăm xong, về chỗ đóng quân
Hương Hương hớn hở tiễn đưa đến ngòi
Vương Quý làm công 王贵揽工
王麻子的娃娃叫王贵,
不大不小十三岁。
崔二爷来好打算,
养下个没头长工常使唤;
算个儿子掌柜不是大,
顶上个揽工的不把钱花。
羊羔子落地咩咩叫,
王贵虽小啥事都知道。
牛驴受苦喂草料,
王贵四季吃不饱。
大年初一饺子下满锅,
王贵还啃糠窝窝。
穿了冬衣没夏衣,
六月天翻穿老羊皮。
秋天收庄稼一张镰,
磨破了手心还说慢。
冬天王贵去放羊,
身上没有好衣裳;
脚手冻烂血直淌,
干粮冻得硬梆梆;
心想拔柴放火烤,
雪下柴儿点不着了。
马兰开花五瓣瓣,
王贵揽工整四年。
冬雪大来年冬麦好,
王贵就象麦苗苗。
十冬腊月雪乱下,
王贵想起他亲大;
老牛死了换上牛不老,
杀父深仇要子报。
Bản Dịch
Bác Vương Rỗ có con trai Vương Quý
Người vừa tầm tuổi mới mười ba
Lã hai Thôi tính chuyện bắt về nhà
Cũng có thể sai công này việc nọ
Đem về nuôi không phải là cha nó
Bắt làm công không mất một đồng tiền
Con dê con lạc mẹ kêu rên
Quý còn bé nhưng trí khôn đã có
Thân trâu ngựa chịu phần ăn cỏ
Quý quanh năm không bữa no lòng
Tết đầu năm bánh nấu đầy bưng
Mà Quý vẫn còn ăn cám rặt
Được áo rét nó không cho áo mát
Giữa ngày hè phải mặc da dê
Đến mùa thu đi gặt lúa về
Tay chảy máu, nó còn chê trễ nải
Trời đông lạnh chăn dê trên núi
Không một manh áo ấm che thân
Căm căm máu buốt tay chân
Một lưng cơm nguội đã gần cứng khô
Cóng người đốt lửa ngồi hơ
Tuyết nhiều, lửa thổi hàng giờ không ra
Mã lan năm cánh khai hoa
Quý làm cho nó kể đà bốn năm
Tuyết nhiều mùa lúa sau tăng
Quý như cây lúa ngày càng tốt tươi
Mùa đông tuyết xuống bời bời
Nhớ cha lòng Quý bồi hồi héo hon
Bò già chết, có bò con
Thù cha quyết báo cho tròn mới thôi
Bà mẹ Мать
Героическим женщинам испанской республики
(Музыка М. Блантера)
Солнце жжет. Тиха долина.
Отгремел в долине бой…
— Где ж ты, дочка? Где ж ты, Лина?
Что случилося с тобой?
Иль твое не слышит ухо?
Иль дошла ты до беды?
Отзовись!— твоя старуха
Принесла тебе воды.
Дочь молчит, не отвечает,
Не выходит наперед,
Мать родную не встречает,
Ключевой воды не пьет.
Спит она под солнцем жгучим,
Спит она с ружьем в руке
На сыпучем, на горючем,
Окровавленном песке.
Платье девичье измято,
И растрепана коса,
И, не двигаясь, куда-то
Смотрят темные глаза.
Мать сама глаза закрыла —
Молчалива и проста;
Мать сама ее зарыла
У зеленого куста.
Положила серый камень
На могилу на ее.
Прядь волос взяла на память
И еще взяла ружье.
И по горным переходам,
Через камни и пески,
Со своим пошла народом
На фашистские полки.
За страну пошла родную,
За великие дела
И за воду ключевую,
Что не выпита была.
Сердце — в гневе, сердце — в горе.
Сердце плачет и поет:
«По долинам и по взгорьям
Шла дивизия вперед».
Bản Dịch
Thung lũng lặng yên. Mặt trời cháy lửa
Ở trong thung, cuộc chiến đấu đã ngừng im
Con của mẹ, Lina, ở đâu con hở?
Có việc gì vừa mới phát sinh?
Có phải chăng tai con đã điếc?
Có phải con gặp việc không may?
Mẹ của con đang đưa cho con nước
Nhanh nhanh lên con hãy trả lời ngay!
Nhưng người con không hé răng, không đáp lại
Cũng không đi được nữa rồi
Chị cũng chẳng đi lên đón mẹ
Dòng nước trong không ướt nữa làn môi
Chị ngủ dưới mặt trời cháy nóng
Khẩu súng còn nắm chặt trong tay
Chị nằm giữa đất khô cát bỏng
Máu đỏ tươi trên đất nhuộm đầy
Bím tóc buông xoã rối
Quần áo đã nát nhàu
Chị nằm im, im mãi
Mắt xám đen còn mải ngắm về đâu
Bà mẹ nhắm nghiền hai mắt
Im lìm không nói năng
Bên bụi cây xanh biếc
Tự tay mình, bà chôn cất con thân
Bà nhặt từng hòn đá xám
Đặt trên nấm mộ con yêu
Giữ một món tóc con làm kỷ niệm
Và sau cùng cầm lấy súng con theo
Vượt qua núi trập trùng
Dẫm lên trên đá cát
Bà cùng với nhân dân
Đi chống quân phát xít
Vì tổ quốc thân yêu
Vì sự nghiệp vĩ đại
Vì nước suối trong mà người con gái
Con chưa uống được vào mồm
Tim căm giận, tim đau thương
Tim đang khóc, tim đang ca hát:
“Đội ngũ chúng ta xông mau lên phía trước
Men theo đất trũng theo đỉnh núi sườn non…”
Đề Yển Thành Nhạc Vương miếu
Tráng hoài khảng khái ẩm Hoàng Long,
Thiết giáp, đâu mâu, khiếu xá không.
Hương đính nghinh sư, hân phụ lão,
Kim bài phụng chiếu, khấp anh hùng.
Thiên giao Nam Tống ngu hòa tự,
Nhân vị Trung Nguyên tích chiến công.
Liệt phẫn do di cung kiếm địa,
Nhất đình tùng bách vãn hào phong.
Bản Dịch
Những mong uống rượu ở Hoàng Long,
Giáp trụ thân mang, miệng thét lừng.
Hương đội đón quân mừng phụ lão,
Bài vàng vâng chiếu, khổ anh hùng.
Trời xui Nam Tống ngu hòa ước,
Người hận Trung Nguyên tiếc chiến công.
Căm phẫn còn lưu nơi chiến trận,
Chiều hôm gió rít giữa sân tùng.
Hà Nam đạo trung
Thản đãng giao nguyên quải thự hà,
Lâm thanh phụ tứ cấp khu xa.
Mạch điền hạ thục phô hoàng tuệ,
Liễu lộ phong cao quyển bạch sa.
Cổ tục dĩ di tang bộc mĩ,
Nhân văn bất tỉ Việt, Kinh hoa.
Tuân tư sảo quán trung châu cảnh,
Trú vĩnh, bằng hiên thiếu tứ hà.
Bản Dịch
Ráng mai treo giữa đồng bằng,
Rầm rầm ngựa kéo, xe băng dặm đường.
Lúa hè chín trĩu bông vàng,
Gió tung cát trắng giữa hàng liễu cao.
Thói xưa dâu bộc đâu nào?
Xem chừng văn vẻ kém màu Việt, Kinh.
Trung châu quen cảnh, quen tình,
Tựa xe, đằng đẵng, sứ nhìn phương xa.
Tiên khảo sinh thần cảm tác
Liêu liêu hạc ngự cách vân hương,
Phi phục văn thân hiến thọ trường.
Giản tảo hữu trai, tông dũ phụ,
Lũng mai vô tín, sứ tinh lang.
Hiếu tư đối việc kiền khôn đại,
Công sự tư chu thủy lục mang.
Vạn lí gia sơn tần nhập mộng,
Dịch đình thiên hiểu khiếp thu lương.
Bản Dịch
Xa xa xe hạc cách mây,
Lấy ai rượu thọ chén đầy dâng cha?
Rau thơm, dâu cả ở nhà,
Vắng tin mai nở, sứ xa cõi ngoài.
Cù lao công đức như trời,
Sứ trình đi khắp sông dài núi to.
Quê nhà muôn dặm trong mơ,
Buổi mai quán dịch hơi thu lạnh lùng.
Lý Hương Hương 李香香
百灵子雀雀百灵子蛋,
崔二爷家住死羊湾。
大河里涨水清混不分,
死羊湾有财主也有穷人。
死羊湾前沟里有一条水,
有一个穷老汉李德瑞。
白胡子李德瑞五十八,
家里只有一枝花。
女儿名叫李香香,
没有兄弟死了娘。
脱毛雀雀过冬天,
没有吃来没有穿。
十六岁的香香顶上牛一条,
累死挣活吃不饱。
羊肚子手巾包冰糖,
虽然人穷好心肠。
玉米结子颗颗鲜,
李老汉年老心肠软。
时常拉着王贵的手,
两眼流泪说:”娃命苦!”
“年岁小来苦头重,
没娘没大孤零零。
“讨吃子住在关爷庙,
我这里就算你的家。”
刮风下雨人闲下,
王贵就来把柴打。
一个妹子一个大,
没家的人儿找到了家。
Bản Dịch
Con se sẻ đẻ nòi trứng sẻ
Nhà lão Thôi ở bến Tử Dương
Nước sông lên, trong đục chẳng rõ ràng
Có địa chủ, có người đói khổ
Bến Tử Dương có con ngòi nho nhỏ
Có ông già Lý Đức Thuỵ xác xơ
Năm tám tuổi rồi râu tóc bạc phơ
Nhà chỉ có một nhành hoa nở
Lý Hương Hương tuổi còn bé nhỏ
Mẹ chết rồi không có anh em
Giữa mùa đông chim rụng lông chim
Vừa thiếu ăn, mặc càng thiếu thốn
Mười sáu tuổi thay bò cày ruộng
Làm rũ xương ăn uống chẳng nên
Khăn da dê gói miếng đường phèn
Người nghèo đói nhưng lòng dạ tốt
Cây ngô nếp tươi bông nở hột
Ông Lý già bụng tốt hơn ai
Ông cầm tay Quý, lệ rơi:
– “Con ơi! đau khổ suốt đời thân con
Khổ nhiều tuổi hãy còn non
Không cha không mẹ, cô đơn không nhà
Người nghèo ở miếu Quan Gia
Bác khuyên con đến đấy mà nương thân”
Trời mưa to có lần việc rỗi
Quý thường sang chặt củi bên nhà
Có cô em lại có người cha
Không nhà cửa lại tìm ra nhà cửa
Mắt căm giận nhìn về Phú Lợi
Đọc thư đồng chí ở công trường
Lửa giận như bừng cháy ruột gan
Căm giận hoá thành muôn lớp sóng
Còn sâu hơn cả sóng sông Hoàng!
Triệu mắt căm hờn nhìn Phú Lợi
Đồng thanh nguyền rủa bầy lang sói
Ngọn cờ thập ngoặc nhục buông xuôi
Táng tận lương tâm của giống người
Gieo giống tình yêu gặt hạnh phúc
Gieo giống thù hằn được thù hằn
Ngày chết bầy lang rồi đến lúc
Tự đem thòng lọng buộc vào thân!
Nhìn bờ Nam hái bóng dừa xanh
Gửi mảnh lòng tôi cháy nhiệt tình
Việt Nam thân thiết anh em ruột
Tin cậy Trung Hoa đứng cạnh mình
Mặt trời nào mọc ở hướng tây?
打着了狐子兔子搬家,
听见闹革命崔二爷心害怕。
白天夜晚不瞌睡,
一垛墙想堵黄河水。
明里查来暗里访,
打听谁个随了共产党。
听说王贵暗里闹革命,
崔二爷头上冒火星!
放羊回来刚进门,
两条麻绳来横着绑,
顺着捆来横着绑,
五花大绑吊在二梁上。
全庄的男女都叫上,
都来看闹革命的啥下场!
连着打断了两根红柳棍,
昏死过去又拿凉水喷。
麻油点灯灯花亮,
王贵浑身扒了个光。
两根麻绳捆着胳膊腿,
捆成个鸭子倒浮水。
满脸浑身血道道,
皮破肉烂不忍瞧。
崔二爷来气凶凶,
打一皮鞭问一声:
“癞虾蟆想吃天鹅肉,
穷鬼们还能闹成个大事情?
“撒泡尿来照照你的影,
贼眉鼠眼还会成了精!
“五黄六月会飘雪花?
太阳会从西边出来吗?”
“老狗你不要耍威风,
大风要吹灭你这盏破油灯!
“我一个死了不要紧,
等千万个穷汉后面跟!
王贵你不要说大话,
说来说去咱们是一家。
“姓崔的没有亏待过你,
猴娃娃养成大后生。
过罢河来你拆了桥,
翅膀硬了你忘了恩。
“马无毛病成了龙,
该是你一时糊涂没想通?
“浪子回头金不换,
放下杀猪刀成神仙。
“千错万错我不怪你,
年轻人没把握我知道哩。”
“老王八你不要灌米汤,
又软又硬我不上你的当。
“世上没良心的就数你,
打死我亲大把我当牲畜;
“苦死苦活一年到头干,
整整五年没见你半个钱;
“五更半夜牲口正吃草,
老狗你就把我吼叫起来了;
“没有衣裳没有被,
五年穿你两件老羊皮;
你吃的大米和白面,
我吃顿黄米当过年;
“一句话来三瞪眼,
三天两头挨皮鞭。
“姓崔的你是娘老子养,
我王贵娘肚里也怀了十个月胎!
“你是人来我也是个人,
你的心为啥这样狠!
“我王贵虽穷心眼亮,
自已的事情有主张;
“闹革命成功我翻了身,
不闹革命我也活不长。
“跳蚤不死一股劲地跳,
管他死活就是我这命一条;
“你要杀要剐由你挑,
你的鬼心眼我知道:
“硬办法不成软办法来,
想叫我顺了你把良心坏。
“趁早收起你那鬼算盘,
想叫我当狗难上难。”
崔二爷气的象疯狗,
撕破了老脸一跳三尺高。
“狗咬巴屎人你不识抬举,
好话不听你还骂人哩!”
说个”打”字皮鞭如雨下,
痛的王贵紧咬着牙。
一阵阵黄风一阵阵沙,
香香看着心上如刀扎。
一阵阵打颤一阵阵麻,
打王贵就象打着了她!
脸皮发红又发白,
眼泪珠噙住不敢滴下来;
两耳发烧浑身麻,
活象一个死娃娃。
为救亲人想的办法好,
偷偷地跑出了大门道。
一边走来一边想:
“王贵的命儿就在今晚上;
“他常到刘家圪塔去开会,
那里该住着游击队?
“快去快跑把信送,
迟一步亲人就难活命”
Bản Dịch
Đánh cáo xong thỏ về tổ ấm
Lão Thôi nghe cách mạng thì lo
Suốt ngày mắt chẳng nhắm cho
Mảnh tường cũng tưởng Hoàng Hà nước dâng
Hết dò lại cố hỏi thăm
Tìm xem cộng sản trong làng là ai?
Nghe tin Vương Quý xong rồi
Nó như lửa bỏng nước sôi trong đầu!
Quý dắt dê vừa vào cửa cổng
Nó đem dây trói cứng cả người
Chân tay trói chặt xong xuôi
Xà treo dây sẵn rút người lên cao
Dân làng trai gái xôn xao
Xem làm cách mạng thế nào, ở đâu?
Đánh tan hai chiếc song tàu
Nó phun nước lã xuống đầu xuống tai
Ngọn đèn treo sáng ngời bốn phía
Cả toàn thân Vương Quý đèn soi
Hai dây trói chặt lấy đùi
Cuộn như con vịt đang bơi mặt hồ
Khắp mình mẩy máu khô máu ướt
Như con bê vừa lột da xong
Lão Thôi độc ác vô cùng
Một roi đánh dứt, hỏi cung một lời:
– “Con cóc thối đòi xơi thịt ngỗng?
Hạng thằng nghèo cũng mộng lớn lao?
Đái ra soi bóng xem sao
Mày cừu mắt chuột đời nào thành tinh
Tuyết nào giữa tháng năm có nữa
Mặt trời đâu mọc ở hướng tây?”
– “Chó già đừng có ra oai
Chỉ ba ngày nữa, mạng mày biết thôi!
Tao đây dẫu có chết rồi
Dân cày còn có triệu người sau lưng”
– “Quý ơi! đừng có huênh hoang
Nói chi thì cũng họ hàng với nhau
Ông Thôi ngược đãi mày đâu
Khỉ con nuôi mãi bắt đầu lớn khôn
Qua sông mày phá cầu luôn
Đủ lông mày lại quên ơn phụ lòng
Ngựa không bệnh, ngựa hoá rồng
Bao nhiêu ngày trước mày không nhớ à?
Con quay về, mẹ cha vàng chẳng đổi
Quẳng dao rồi thành phật tiên ngay
Bao nhiêu sai thất của mày
Trẻ người non dạ tao đây lạ gì”
– “Đừng chan cơm hỡi lão già kia
Cứng rồi mềm không làm gì tao được
Mày là đứa đầy lòng gian ác
Giết cha rồi mày lại bắt con
Làm quanh năm chết mỏi chết mòn
Năm năm trọn không được đồng xu nhỏ
Đang nửa đêm trâu bò ăn cỏ
Thằng chó già gọi dậy cho mau
Không áo quần, chẳng chiếu chăn đâu
Năm năm chỉ áo da rách rúm
Mày ăn toàn cơm thơm gạo trắng
Tao ăn toàn tấm cám quanh năm
Nói một câu, mày trợn mắt ba lần
Trong ba ngày phải chịu đòn hai bữa
Mày họ Thôi cũng mẹ mày sinh nở
Vương Quý tao cũng chín tháng mười ngày
Mày là người, tao cũng người đây
Sao mày lại vô lương tâm thế hở?
Tao tuy nghèo nhưng mắt tao sáng tỏ
Công việc tao, tao đã đinh ninh
Cách mạng thành công, tao sẽ vươn mình
Không cách mạng, tao khó lòng sống nổi
Bọ chưa chết, bọ còn nhảy mãi
Loại bọ kia cũng giống tao đây
Giết hay sao cũng ở tay mày
Lòng quỷ sứ tao đây đã biết
Cứng rồi mềm bày ra cho hết
Nghe theo mày cho mất tiệt lương tâm
Con toán mày bỏ thử mấy lần
Cũng không thể làm tao thành giống chó”
Lão hai Thôi lồng lên nhăn nhó
Cấu mặt mày như chó nổi điên:
– “Mày như giống chó đã quen
Nói điều chẳng phải lồng lên chửi à?”
Miệng nói “đánh” roi da lại quất
Quý nhịn đau, nghiến chặt hàm răng
Gió vàng cuộnc cát bay tung
Lòng Hương đau đớn tưởng chừng dao đâm
Một trận roi, một lần lặng ngắt
Hương thấy mình bị quất vào da
Mặt bừng rồi trắng nhợt ra
Nén dòng nước mắt xót xa trong lòng
Lặng im, tai nóng bừng bừng
Hương như người chết, mắt trừng lặng câm
Phải tìm cách cứu người thân
Hương Hương vụt chạy bất thần ra thôn
Chân đi bụng nghĩ bồn chồn
Mạng anh Vương Quý chỉ còn đêm nay
Bác Lưu nhà ở gần đây
Là nơi du kích thường ngày gặp nhau
Phải đem tin báo cho mau
Chậm chân anh Quý còn đâu là đời”
Buồn đau? là biển cả A bánat? egy nagy óceán
A bánat? egy nagy óceán.
S az öröm?
Az óceán kis gyöngye. Talán,
Mire fölhozom, össze is töröm.
Bản Dịch
Buồn đau? Là biển cả
Vui sướng? Là ngọc châu
Khi mò được ngọc châu dưới bể
E giữa vời tan nát biết đâu.
Cha tôi và nghề của tôi
Mindig biztattál, jó apám:
Kövessem mesterségedet,
Mondtad, hogy mészáros legyek…
Fiad azonban író lett.
Te a taglóval ökröt ütsz,
Tollammal én embert ütök – –
Egyébiránt ez egyre megy,
Különböző csak a nevök.
Bản Dịch
Cha thân yêu, cứ dặn con rằng:
Phải theo cha, phải lo thừa kế
Lấy nghề cha, nghề làm đồ tể
Nhưng con cha lại học nghề văn
Cha thì cầm dao giết bò lợn
Con thì cầm bút con đấu tranh
Công việc chúng ta đều chẳng khác
Chỉ là khác có cái tên chăng
Đất hỡi! Ngươi ăn gì? Mit ettél, föld…
Mit ettél, föld, hogy egyre szomjazol?
Hogy annyi könnyet s annyi vért iszol?
Bản Dịch
Đất hỡi, ngươi ăn gì? Mà quá khát?
Sao uống nhiều nước mắt, máu tươi
Gửi người Hungary ở ngoại quốc
Ti fekélyek a hazának testén,
Mit mondjak felőletek?
Hogyha volnék tűz: kiégetnélek,
Égetném rosz véretek.
Nem vagyok tűz, nincs emésztő lángom;
De van éles hangu szóm,
Mely reátok átkait kiáltja,
Átkait irtóztatón.
Annyi kincse van hát e hazának,
Hogy nem is fér benne meg?
Hiszen e hon, e boldogtalan hon
Oly szegény és oly beteg.
És ti rablók! amit orvosságra
Izzad kínnal e haza:
Elhordjátok idegen bálványtok,
A külföld oltárira.
E hazán, mely porban esd kenyérért.
Nem esik meg szívetek;
Míg ő vért sír, poharaitokba
Kinn ti a bort töltitek.
És csak akkor tértek vissza, már ha
Koldusbot van nálatok:
Kit koldussá tettetek, hogy tőle
Ismét koldulhassatok.
Amiként ti e szegény hazából
Magatok száműzitek:
Vesse úgy ki csontotokat a sír
S a mennyország lelketek!
Bản Dịch
Các anh, những ung nhọt trên mình Tổ quốc
Cùng các anh, ta phải nói những gì?
Nếu là lửa thì ta phải đốt
Đốt ra tro máu xấu các anh đi
Ta không là lửa, không là ngọn lửa hồng đốt phá
Nhưng ta có nhiều tiếng nói sắc như gai
Ta sẽ ném cho các anh những lời chửi rủa
Bằng những câu độc ác nhất đời
Tổ quốc này có kho báu gì đây?
Các của cải có hay không có?
Tổ quốc này, Tổ quốc đáng thương này
Bệnh đã nặng còn xiết bao nghèo khổ
Các anh, bầy trộm cướp lại mang đi
Những tài sản bằng máu xương Tổ quốc
Các anh tất cả đã mang đi
Để cúng tế cho tượng thờ ngoại quốc
Bọn các anh không hề có xót thương Tổ quốc
Đang ăn xin ở giữa bùn lầy
Đang chảy máu, đang chảy tràn nước mắt
Ở nước ngoài các anh phè phỡn no say
Khi các anh cầm đến gậy ăn mày
Các anh mới mò về Tổ quốc
Để xin ăn, mà rõ ràng kỳ thực
Vì các anh, Tổ quốc mới ăn mày
Từ bỏ Tổ quốc đáng thương này
Các anh đi, dặm đường xa đi mãi
Phần mộ phải ném xương các anh ra khỏi
Thiên đường cũng phải quăng đi hồn của các anh
Gửi từ phương xa Távolból
Kis lak áll a nagy Duna mentében;
Oh mi drága e lakocska nékem!
Könnyben úszik két szemem pillája,
Valahányszor emlékszem reája.
Bár maradtam volna benne végig!
De az embert vágyai vezérlik;
Vágyaimnak sólyomszárnya támadt,
S odahagytam őslakom s anyámat.
Kínok égtek a szülőkebelben,
Hogy bucsúmnak csókját ráleheltem;
S kínja lángi el nem aluvának
Jéggyöngyétől szeme harmatának.
Mint ölelt át reszkető karával!
Mint marasztott esdeklő szavával!
Oh, ha akkor látok a világba:
Nem marasztott volna tán hiába.
Szép reményink hajnalcsillagánál
A jövendő tündérkert gyanánt áll,
S csak midőn a tömkelegbe lépünk,
Venni észre gyászos tévedésünk.
Engem is hogy csillogó reményem
Biztatott csak, minek elbeszélnem?
S hogy mióta járom a világot,
Bolygó lábam száz tövisre hágott.
…Szép hazámba ismerősök mennek;
Jó anyámnak tőlök mit izenjek?
Szóljatok be, földiek, ha lészen
Útazástok háza közelében.
Mondjátok, hogy könnyeit ne öntse,
Mert fiának kedvez a szerencse – –
Ah, ha tudná, mily nyomorban élek,
Megrepedne a szive szegények!
Bản Dịch
Căn nhà nhỏ bên sông Đa-nuýp
Ôi xiết bao lưu luyến lòng người
Bao nhiêu lần tôi ngồi tưởng nhớ
Giọt lệ tràn mờ cả mắt tôi
Tôi vẫn tưởng ở yên đây mãi
Nhưng ước mơ đã đuổi tôi rồi
Bao mơ ước mọc thành đôi cánh
Cảnh gia đình không thể giữ chân tôi
Khi chiếc hôn từ biệt kêu lên
Mẹ đau đớn không sao chịu nổi
Nước mắt tràn không dập tắt trong tim
Ngọn lửa tình yêu rừng rực cháy
Cánh tay mẹ ôm tôi run rẩy
Khẩn cầu tôi ở lại quê hương
Nếu không đoán trước bao điều ấy
Sao tôi giờ được ở tha phương
Dưới ánh sao hi vọng thắm tươi
Tương lai tựa vườn hoa tiên nữ
Nhưng vào trong láo nháo cuộc đời
Mới biết chúng ta nhầm lẫn cả
Tôi từng đã thấy ánh tương lai
Đau khổ trong tim không muốn nói
Tôi toàn đi giữa đường chông gai
Toàn giữa cuộc đời trôi với nổi
…Nay có người quen về quê hương
Sẽ đưa tin gì về cho mẹ?
Bạn ơi có tới mái nhà con
Xin bạn hãy vào thăm mẹ nhé
Bảo rằng mẹ chớ có lo âu
Có Chúa trên đầu ban hạnh phúc
Nếu như mẹ biết tôi khổ đau
Nhất định mẹ sầu mẹ chết mất
Lúa đã chín rồi Érik a gabona
Érik a gabona,
Melegek a napok,
Hétfőn virradóra
Aratásba kapok.
Érik szerelmem is,
Mert forró a szivem;
Légy te aratója,
Édes egyetlenem!
Bản Dịch
Lúa đã chín rồi
Ngày ngày nóng bức
Hẹn đến ngày mai
Ta đi ta gặt
Tình ta cũng chín rồi
Tim ta cũng nóng bức
Mong em, em yêu ơi
Em là người đến gặt
Cửa sông Hoàng Phố 黄浦江口
平和之乡哟!
我的父母之邦!
岸草那么青翠!
流水这般嫩黄!
我倚着船围远望,
平坦的大地如像海洋,
除了一┣啻涞牧?
全没有山崖阻障。
小舟在波上簸扬,
人们如在梦中一样。
平和之乡哟!
我的父母之邦!
Bản Dịch
Ôi quê hương hoà bình
Xứ sở mẹ cha tôi
Cỏ bờ xanh ngọc biếc
Sông vàng như chồi tươi
Dựa mạn thuyền trông xa
Đất bằng như biển cả
Trừ sóng liễu biếc ra
Không núi đồi ngăn trở
Thuyền chập chờn trên sóng
Người như trong cõi mộng
Ôi quê hương hoà bình
Xứ sở mẹ cha tôi
Hãn tri âm 罕知音 • Ít bạn tri âm
此時說道罕知音,
只為如斯道喪心。
奚似子期多爽慘,
聽來一達伯牙琴。
Bản Dịch
Thời này bàn Đạo ít tri âm,
Vì Đạo ngày nay đã mất Tâm!
Ai giống Tử Kỳ nghe nhạc giỏi?
Bá Nha đàn thoảng, hiểu tình thâm.
Giã gạo
Trong bản, khói chiều lên
Mọi nhà bắt đầu giã gạo
Bưng một thúng thóc vàng
Cô gái xuống cầu thang
Cô gái xuống cầu thang
Từ từ đến bên cối gỗ
Ngoài rào, vừa có đội tuần tra
Vó ngựa cồm cộp dần đi xa
Vó ngựa cồm cộp dần đi xa
Cô gái đứng lâu bên chiếc cối
Cô nhớ anh bộ đội khuôn mặt tròn
Cô nhớ vào một buổi hoàng hôn
Cô nhớ vào một buổi hoàng hôn
Anh giúp cô giã gạo
Đầu gối anh vụng về cong quẹo
Một bàn chân bám đất, một bàn chân chọc trời
Một bàn chân bám đất, một bàn chân chọc trời
Nhớ tới đây, cô bật phì cười
Cô nghịch ngợm bắt chước anh bộ đội
Một mình cô đứng giẫm cối không
Một mình cô đứng giẫm cối không
Trái tim từ từ bay ra khỏi rào tre của bản
Anh đã theo đường nào đến bản
Nhà anh không biết ở nơi nào
Nhà anh không biết ở nơi nào
Có lẽ anh chưa từng giẫm cối
Chắc nhà anh không phải nhà sàn đâu
Nhất định anh không hề ăn cơm nếp
Nhất định anh không hề ăn cơm nếp
Mà sao anh tiếng Thái sõi thế kia
Trông cách anh bắt giặc sâu* như xưa kia anh đã từng săn hoẵng
Trong giọng hát bài ca Thái, như anh đã từng uống nước Lãn Thương Giang
Như đã từng uống nước Lãn Thương Giang
– Thôi đúng anh thật là người Thái
Quê anh cũng lúa nếp trồng trên nương
Cũng có cối gạo trước nhà đấy
Cũng có cối gạo trước nhà đấy
Nghe nói nhà anh chỉ có một mẹ già
Thương thay bà cụ còn thiếu cô gái đảm đang thay bà giẫm cối
Thiếu cô gái đảm đang giã gạo thay bà
Thiếu cô gái đảm đang giã gạo thay bà
Trên mặt cô một áng mây hồng bay tới
“Pung lung lung, Pung lung lung!” trong ráng đỏ chiều tà
Cô gái ngẩn ngơ một mình giẫm cối
Cô gái ngẩn ngơ một mình giẫm cối
Cứ giẫm hoài mà chẳng có gạo đâu
Bà mế đợi mãi không chịu nổi
Nhẹ nhàng xuống sàn để xem sao
Nhẹ nhàng xuống sàn để xem sao
Một cảnh tượng khiến bà há hốc mồm kinh hãi
– Trời ơi! mắt tôi nhìn thấy thật hay sao
Giã gạo mà không hạt lúa nào trong cối
Người chăn bò trong rừng dừa
Gió mưa bay xanh ngát rừng dừa
Mõ gỗ trong rừng vang tiếng nhạc
Bà cụ cưỡi bò thoáng hiện ra
Theo sau cụ, đàn bò hợp tác
Chiếc áo tơi lá dừa cụ mặc
Nón đội đầu, cái chóp cao cao
Chuỗi hoa trường xuân đeo trước ngực
Như khăn tơ đỏ rực sắc màu
Ngửng đầu hát bài ca miền núi
Tiếng gió mưa rơi, bỗng chốc ngừng
Cụ tuy già lão thân còm cõi
Vẫn có con tim kẻ mục đồng
Vịnh Bắc Bộ
Trên biển rộng như mặt gương phẳng lặng
Những thuyền chài qua lại như hải âu
Sóng đập mạnh vào bốt đồn sập đổ
Như nhạo cười bọn đế quốc gục từ lâu
Phía bên kia Vịnh Bắc Bộ im lìm
Đảo Hải Nam của chúng tôi mỹ lệ
Cách biển lớn, ta thở chung không khí
Đón thuỷ triều buổi sáng buổi chiều lên
Khi chúng tôi nhìn thuỷ triều buổi sáng
Nhớ tới Đài Loan quý báu thân yêu
Khi chiều hôm nhìn nước thuỷ triều
Bạn nhớ tới bờ biển miền Nam như vành trăng tỏ
Sáng và chiều chúng ta cùng thở
Cùng tâm tình chung một mà thôi
Ôi biển rộng! nghe tiếng lòng của ta không hở?
Có thể nào mang tiếng đó đến xa khơi?
Ôxơvenxim Oświęcim
Ja chcę wdychać warszawskie powietrze,
w tym powietrzu jest moje żona,
puszczona z dymem po wietrze.
Powietrze – to ona.
Jest takie miasteczko Oświęcim,
było tam krematorium,
a teraz święte i święci
latają stamtąd ponad historią.
Cóż ja na to mogę poradzić, co zrobić?
Westchnąć i odejść.
Poza mną urny, poza mną groby,
dawno miniona młodość.
Bản Dịch
Tôi muốn thở không khí mùa xuân
Có vợ tôi trong bầu không khí đó
Hay người đã thành tro bay trong gió
Không khí này – chính đó vợ tôi
Trong thành phố nhỏ Ôxơvenxim
Đã có những lò thiêu người sống
Chúng đã làm ra những thánh những thần
Bay sát trên đầu lịch sử
Tôi loay hoay bất lực trong phòng mình
Làm gì đây? Than thở, ra đi
Đằng sau tôi những mồ những huyệt
Tuổi xuân tôi thành lối đường đi
Trên đây chúng tôi đã tiếp nối bài viết Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 5bằng những bài thơ hay, hấp dẫn nhất của nhà thơ. Hy vọng qua các bài viết của chúng tôi sẽ làm các bạn cảm thấy yêu thích. Hãy đồng hành cùng Thuvientho.com để theo dõi những bài viết hay nhất nhé! Thân Ái!
Theo Thuvientho.com